Tác giả: Nguyễn Thanh Giang
Dự thảo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung và phát triển năm 2011” và các văn kiện Đại hội XI vừa được công bố hôm 15 tháng 9, bảo là để lấy ý kiến của nhân dân. Báo chí và các phương tiện truyền thông của Đảng đã đưa hàng loạt phản hồi tán thưởng, ngợi ca. Hầu hết đều hời hợt, nông cạn vì chẳng qua tất cả đều nói-theo-chỉ-đạo hoặc nói-lấy-được, không thấy cái trí và cái tâm đâu cả. May sao, đâu đó có thể đọc được một số ý kiến khá thấu đáo. Xin được lược ghi:
Luận điểm “Loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”chỉ nên xem là một phán đoán để ngỏ, đúng như thực chất của nó. Phán đoán này vốn không có ý nghĩa chính trị thiết thực (không đề cập gì về thời gian, không gian, thời điểm, các lực lượng tác động, các phương thức), vì vậy, càng không thể được coi là luận điểm xuất phát để xây dựng cương lĩnh chính trị. Tốt nhất là đưa khỏi dự thảo cương lĩnh một phán đoán chưa đủ cơ sở lý luận và căn cứ thực tiễn như vậy để tránh lầm lẫn trong nhận thức.
Những quan điểm bảo thủ được gán cho cái nhãn mác đẹp đẽ là trung thành với lý tưởng XHCN, đã bị lợi dụng cho những lợi ích phe nhóm với những đặc quyền đặc lợi phát sinh trong cơ chế thị trường. Nó hù dọa xã hội về mọi tai ương đe dọa, bóp nghẹt mọi ý kiến đòi thực hiện đúng nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước, chụp cho nó mọi cái mũ xấu xa… Đã có một bộ phận miệng nói XHCN, nhưng chân bước đi theo con đường man rợ mà chủ nghĩa tư bản từng bắt buộc phải đi qua vào một thời điểm lịch sử khác, trong giai đoạn tích lũy ban đầu: bóc lột, tàn phá thiên nhiên, bóc lột sức lao động, chiếm đoạt đất đai, của cải, tài sản nhà nước, lũng đoạn quyền lực. Đối với nó, XHCN là một khái niệm hoàn toàn trống rỗng, nhưng nó muốn lợi dụng đến cùng để che đậy bản chất thật và trục lợi, trước khi công khai xé bỏ hoàn toàn khi đủ điều kiện.
Nếu biết cái đích đi tới được sau 35 năm độc lập thống nhất là thực trạng mọi mặt đất nước như hôm nay, liệu dân tộc ta trước đây có dám hy sinh chiến đấu hết thế hệ này đến thế hệ khác như vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hay không?g?
Quyền sở hữu toàn dân là một khái niệm kỳ quặc… Đó là một sự “sáng tạo” chết người của những người được dân ủy thác. Không có cái gọi là sở hữu toàn dân. Đó chỉ là một từ được “sáng tạo” ra để duy trì “quyền sở hữu thực” của một nhóm cá nhân. Xét thực tế đó cũng chẳng khác gì quyền của vua chúa xưa kia, nhưng chí ít vua còn công khai tuyên bố rằng là của ông ta và có quyền ban, phát cho các cận thần.
Chính sự không rạch ròi này là nguyên nhân của trên 98% của các vụ khiếu kiện trong thời gian vừa qua. Đã đến lúc phải giải quyết tận gốc vấn đề sở hữu, nếu không tình hình khiếu kiện còn tiếp diễn và nhiều hơn có thể dẫn đến bất ổn xã hội trầm trọng và cản trở sự phát triển của đất nước.
Hai quốc gia Bắc Triều Tiên và Cuba kiên trì giữ nguyên mô hình xã hội chủ nghĩa Xô-viết, càng ngày càng lâm vào nghèo đói và bế tắc. Năm 2010 này, Cuba bắt đầu giao đất cho nông dân và các nhà đầu tư. Đầu tháng 9-2010, trả lời nhà báo Mỹ, ông Fidel Castro đã cho rằng đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Cuba trước đây không còn phù hợp.
Nhiều nhà nghiên cứu nhất trí rằng: chủ nghĩa xã hội khoa học thất bại vì thật ra nó còn không tưởng hơn cả những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng tiền bối. Nó từ bỏ những giá trị văn minh mà nhân loại trải nghìn năm mới tìm thấy, rồi chọn cho mình những giá trị chưa hề được thử thách.
Lần này, dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội 11 viết: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” (Mục 1 – Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường).
Thật quá mù mờ và sai trái! Các nhà lý luận chúng ta lại quên những lời dạy cơ bản của Marx: “Vật chất có trước và quyết định ý thức”, và của Lenin: “Trên mảnh đất sản xuất cá thể, hằng ngày, hằng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”!
Ngay sau khi nhà nước cho phép kinh doanh tư nhân đã có những đảng viên cộng sản như Lê Kiên Thành (con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn) xin ra Đảng để được làm “nhà hữu sản mới”. Đó là những người thức thời và sòng phẳng. Nhưng chỉ vài ba năm sau, xã hội phát hiện có không ít người vẫn đang sinh hoạt Đảng, thậm chí còn đương chức mà đã là nhà hữu sản lớn bằng thủ đoạn đứng phía sau vợ con.
Ngày nay trên đất nước ta không phải chỉ có mảnh đất sản xuất cá thể mà đang có “những nhà hữu sản mới thoát thai từ tham nhũng, đạo lý kém hơn, chụp giựt hơn, lưu manh hơn”. Việc tìm cách đưa họ vào con đường phát triển tư bản văn minh, ngăn chặn họ hình thành những nhóm lợi ích đã là vô cùng nan giải rồi, huống hồ lại toan đưa họ vào định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ bằng các “nguyên tắc và bản chất” vô hình!
Trên đây chỉ là lược trích một số ít, mặc dầu đã có nhiều ý kiến thấu đáo khác nữa như vậy, một số cán bộ cách mạng kỳ cựu và trí thức vì quá bức bối vẫn yêu cầu tôi tiếp tục góp lời bàn thảo.
Tôi đang lưỡng lự chưa biết nên hành xử thế nào vì biết rằng nói với họ chẳng qua chỉ như “đàn gẩy tai trâu”, “nước đổ đầu vịt” thì bỗng nhiên, có cuộc hẹn giữa tôi với ông Đặng Quốc Bảo – nguyên ủy viên Trung ương Đảng – vào hồi 15 giờ ngày 24 tháng 9 năm 2010.
Do có một cuộc trò chuyện lý thú khác trước đó kéo dài nên tôi đến trễ 25 phút. Người giúp việc ra mở cửa có ý trách: “Ông cháu đợi ông đã lâu quá rồi!”.
Ông Bảo kể tôi nghe về cuộc thời đàm giữa ông với ông Lê Đức Anh hôm 18 tháng 9 năm 2010. Ông Lê Đức Anh mời ba người đến nhà: trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh và ông Đặng Quốc Bảo. Tuy nhiên, chỉ mình ông Bảo đến. Ý nghĩa cuộc thời đàm cuốn hút đến nỗi đã bắt đầu từ 9 giờ sáng, nhưng nếu không bị cái ngưỡng 12 giờ trưa chặn lại thì hai ông già ngấp nghé chín mươi vẫn chưa chịu rời nhau. Sang đến cuộc trò chuỵện này thì tôi cũng đã không thể dứt ra được nếu vợ tôi không gọi điện thoại đến nhắc trời đã tối và nhà đang chờ cơm.
Chuyện khá dài nhưng tôi chỉ xin ghi tóm tắt ở đây đoạn mở đầu câu chuyện mà ông Lê Đức Anh đã nói với ông Đặng Quốc Bảo một cách nghiêm trọng và cho là hết sức bức thiết. Có 4 ý chính:
- Tình hình rất đáng quan ngại là hiện nước ngoài đang tích cực can thiệp vào vấn đề nhân sự Đại hôi XI của Đảng ta;
- Điều rất nguy hiểm là họ đang âm mưu dựng Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí thư;
- Người ngoan ngoãn vâng lời Trung Quốc đến mức vô nguyên tắc là Nông Đức Mạnh;
- Dẫu chưa thỏa đáng lắm nhưng trong tình hình này có thể là nên chấp nhận Nguyễn Tấn Dũng làm Tổng Bí thư.
Những thông tin này dường như không thể tin được nếu trước đây mấy giờ không có buổi gặp giữa ông Nguyễn Văn Hội với tôi (mà vì câu chuyện với ông Nguyễn Văn Hội khá hấp dẫn nên tôi trễ hẹn với ông Đặng Quốc Bảo).
Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ông Hội từng làm đại đội trưởng ở cùng đại đội mà ông Lê Đức Anh làm chính trị viên. Trong phòng khách của ông Hội có treo hai bức ảnh ông chụp chung với hai vị Chủ tịch nước đã từng đến đây thăm ông mấy lần: Lê Đức Anh và Nguyễn Minh Triết.
Không biết có phải hữu ý không nhưng cả buổi trò chuyện, ông Hội đã trình bày với tôi khá chi tiết về ông Lê Đức Anh. Những thông tin từ ông Nguyễn Văn Hội, cũng như những thông tin lâu nay vẫn được nghe vì đều không có điều kiện kiểm chứng nên không thể nào đánh giá đúng về ông Lê Đức Anh và trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tuy nhiên, dù ông Lê Đức Anh có man khai lý lịch và đã từng làm mật thám cho Pháp… thì chuyện ông Lê Đức Anh nói với ông Đặng Quốc Bảo vẫn làm tôi nức lòng. Tôi tâm tình với ông Bảo: “Đây là sự kiện rất hệ trọng và ngày hôm nay là một trong những ngày vui nhất đối với tôi trong những năm gần đây.”
Tôi cho rằng, khác với mẫu người cố cựu, giáo điều nên thường kiên định lập trường như Trường Chinh, loại như Lê Duẩn, Lê Đức Anh linh hoạt hơn, thực dụng hơn, dễ xoay 180 độ hơn. Lê Duẩn từng theo Trung Quốc chống xét lại nhưng rồi cũng đã nắm tay Liên Xô đả Trung Quốc. Lê Đức Anh từng dựng Lê Khả Phiêu lên làm Tổng Bí thư nhưng lại đã quật đổ Lê Khả Phiêu không thương tiếc… Có thể Lê Đức Anh từng thần phục Trung Quốc khi đưa ra “giải pháp đỏ” và từng mang ơn Trung Quốc đã chữa bệnh cứu mạng cho ông ta, nhưng cũng có thể ông vì còn sáng suốt nên đã trở cờ? Mà trở cờ đúng.
Về Nguyễn Phú Trọng, trong bài “Rất đáng phàn nàn về ông Nguyễn Phú Trọng” đề ngày 7 tháng 5 năm 2007 tôi đã viết:
Ông Nguyễn Phú Trọng qua chuyến viếng thăm Trung Quốc trên cương vị Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đầu tháng 4 năm 2007 vừa qua vừa không biểu thị được tự trọng dân tộc, lại có thái độ tự ti của kẻ chư hầu nên rất đáng chê trách!… tiếp ông Nguyễn Phú Trọng hôm 9 tháng 4 năm 2007, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Ngô Bang Quốc đã cao giọng căn dặn: hai bên cần “giải quyết ổn thỏa vấn đề biên giới, lãnh thổ, thực hiện tốt các hiệp định liên quan, cùng nhau giữ gìn ổn định của vùng biển Nam Trung Quốc”.
Thật là ngạo mạn và dớ dẩn. Tôi sang thăm anh như một người bạn láng giềng để giao hảo và xem có gì cùng có lợi thì bàn nhau hợp tác mà làm, sao anh lại dám giao nhiệm vụ cho tôi phải “giữ gìn ổn định vùng biển Nam Trung Quốc”. Chỗ nào đúng là “vùng biển Nam Trung Quốc” của anh thì anh lo mà “giữ gìn ổn định” lấy chứ. Tôi có là tay sai, là chư hầu của anh đâu mà anh có quyền giao nhiệm vụ. Tôi cũng không thèm tham lam như anh để rồi lăm lăm làm mất ổn định cái “vùng biển Nam Trung Quốc” nào đó của anh.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tên là Tần Cương lại còn trâng tráo gọi hành động của ta là “xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ quyền và quyền cai quản của Trung Quốc”. Ông ta lếu láo trịch thượng: “Trung Quốc bầy tỏ hết sức quan tâm việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam.”
(Tôi dù lớn, dù nhỏ cũng là bạn anh, anh có định nghiêm khắc thì cũng chỉ có thể nghiêm khắc với các con dân của các anh thôi chứ! Ví dụ, hãy nghiêm khắc dạy con dân của các anh rằng đừng có dại dột noi gương cha ông mà kéo nhau sang vùi xác ở gò Đống Đa chẳng hạn…)
… rõ ràng kiểu hành xử của Trung Quốc như vậy, xét cách nào cũng không chấp nhận được. Thế mà ông Nguyễn Phú Trọng đã không có nổi một phản ứng, dù rất nhẹ nhàng, tinh tế. Ông vẫn dẫn vợ đi thăm thú đó đây thoải mái và cười vui hơi nhiều!
Đành rằng đang trong không khí “tay bắt mặt mừng”, chẳng tiện đối đáp chát chúa làm gì, nhưng ít ra khi Ngô Bang Quốc giao nhiệm vụ “giữ gìn ổn định biển Nam Trung Quốc”, Nguyễn Phú Trọng, chẳng hạn, cũng nên “báo cáo” lại rằng mong các đồng chí hãy giữ gìn ổn định Biển Đông Việt Nam để thực hiện “Chiến lược Biển” quan trọng mà Hội nghị Trung ương IV của Đảng chúng tôi vừa nêu ra.
Phô trương thắng lợi chuyến đi, bài “Ấn tượng Trung Hoa” đăng báo Nhân dân số ra ngày 11 tháng 4 năm 2007 trình bầy cuộc thăm viếng Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng viết: “Đáng mừng là, cùng với thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, Trung Quốc đang thể hiện sự quan tâm ngày càng nhiều hơn tới Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam xây dựng một số nhà máy, công trình như: Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, nhiệt điện Quảng Ninh, nhà máy sản xuất phân đạm từ than cám ở Ninh Bình…”
Cả một nước Trung Hoa vĩ đại, “cùng với thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế”, khi “thể hiện sự quan tâm ngày càng nhiều hơn tới Việt Nam” mà chỉ hỗ trợ xây dựng được mấy nhà máy thủ công như thế. Vậy mà cũng “đáng mừng là” lắm sao!
Thế mà ông Nguyễn Phú Trọng cười vui hoan hỉ hơi nhiều, cảm ơn hơi nhiều, hứa học tập và noi gương hơi nhiều. (Vì vẫn còn đeo đẳng cái tư tưởng nô lệ ý thức hệ hơi nặng.)
Ngạc nhiên hơn là, ông Nguyễn Phú Trọng oang oang báo cáo với Trung Quốc và với toàn thế giới rằng: “Từ ngày nhận lãnh cương vị Chủ tịch Quốc hội, nước đầu tiên tôi đi thăm là Trung Quốc.”
… Nhẽ ra, dẫu ông Nguyễn Phú Trọng có muốn tranh thủ Trung Quốc như thế nào đấy thì ông cũng chỉ cần biểu thị bằng hành động là đã đủ. Nói ra như vậy hết sức vô chính trị. Chẳng nhẽ ông Nguyễn Minh Triết lên làm Chủ tịch nước, ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ tướng chính phủ mà không sang thăm ngay Trung Quốc là không đúng bằng ông Nguyễn Phú Trọng hay sao? Chẳng nhẽ đối với Việt Nam, tất cả các nước đều chỉ được xếp hàng sau Trung Quốc hay sao?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chọn Nhật Bản, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết chọn Lào là những nước đến thăm đầu tiên (chứ không phải Hoa Kỳ hay Trung Quốc) là rất thông minh. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc trước để tháng 6 này Chủ tịch Nguyễn Minh Triết thăm Hoa Kỳ thì cũng phải đạo thôi. Nhưng, như đã nói, chỉ cần biểu thị bằng hành động thế là đủ, hà tất phải “nhất bộ nhất bái” thiên hạ làm gì!
Có cụ cách mạng lão thành đặt câu hỏi: “Hay là họ muốn vỗ vào mặt nhau, muốn chèn nhau để được ưu tiên đón nhận ân huệ và sự bảo trợ của Trung Quốc?”
… Một thiếu nhi Tháng Tám của tôi khi xưa, sau này học đại học văn khoa với Nguyễn Phú Trọng cho biết rằng, ở lớp anh ta học rất bình thường, cũng chẳng có hoạt động xã hội sôi nổi gì, vậy mà không biết nhờ đâu anh ta thăng quan nhanh thế?
Thực vậy, ông Nguyễn Phú Trọng từ một học sinh trơn vào đại học. Đường đi thênh thang, dễ dãi quá khiến ông không có được cái tư chất, cái bản lĩnh, cái nghị lực của người được gian nan thử thách, được xã hội nhào luyện. Ông cũng không có thực tế tham gia chiến trường, không kinh qua hoạt động kinh tế hay khoa học công nghệ mà chỉ là một “thợ cạo giấy”. Hồi làm Bí thư Thành ủy Hà Nội bị nhận xét là “lú như Trọng”. Phụ trách công tác lý luận thì toàn lý luận cùn. Sử dụng bừa bãi giấy mực, tiền của của nhân dân để “nói lấy được” những luận điểm cũ rích, lạc hậu đến mức đã thành phản động. Làm công tác tư tưởng bằng xiềng gông tinh thần, thuyết phục quần chúng bằng công an văn hóa và bằng tòa án xử theo chỉ thị.
Càng đáng phàn nàn nữa là, trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, khi chủ nhiệm Ủy ban An ninh Quốc phòng Lê Quang Bình yêu cầu báo cáo tình hình Biển Đông với đầy những sự cố hết sức đáng quan ngại để Quốc hội xem xét thì Nguyễn Phú Trọng gạt đi và nói: Tình hình Biển Đông năm qua không có gì mới. Sự lấp liếm thật là trâng tráo!
Cho nên, vấn đề hệ trọng hơn mọi vấn đề hệ trọng hiện nay là phải ngăn chặn cho được âm mưu của nước ngoài đưa Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí thư.
Vì sao đây là vấn đề hệ trọng hơn cả?
Hãy thử so sánh với vấn đề tham những. Tham nhũng đang là quốc nạn hết sức nhức nhối và tai hại. Tuy nhiên, dẫu người Việt Nam tham nhũng của nhau hàng chục, hàng trăm tỷ thì cũng không đau xót bằng bọn ngoại bang kia tham nhũng cả đất nước, cả dân tộc này. Họ không chỉ tham nhũng Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa… mà còn mồi chài, đút lót hòng giành được hàng loạt hợp đồng béo bở để ăn bẫm (hơn 90% các dự án nhiệt điện đều do Trung Quốc thắng thầu!?). Rồi họ phá kế hoạch của ta (Tất cả 6 dự án điện do TKV ký với Trung Quốc: Cao Ngạn, Sơn Động, Nông Sơn, Cẩm Phả 1, Cẩm Phả 2, Mạo Khê đều chậm tiến độ.) Rồi biến đất nước này thành bãi rác chứa những đồ thải loại như xi măng lò đứng, như những nhà máy đường chưa hoạt động đã phải đắp chiếu…
Xâm lăng đã đành, thực dân đã đành, khốn khổ hơn, họ còn sẽ biến dân tộc này thành bầy lính lệ chiến đấu cho mục tiêu vươn lên đối địch với Hoa Kỳ của họ.
Thế giới nên đa cực, nhưng có chăng chỉ nên có Giêsu, Thích ca Mầu ni, Allah chứ không nên có Giêsu và Giuda.
Trung Quốc không những chưa có khả năng mà cũng chưa có tiền đề trở thành một cực của thế giới. Việc trưng ngọn cờ XHCN hiện nay chỉ là sự lừa bịp nhằm lôi cuốn những kẻ nhẹ dạ, ngu dốt tự nguyện làm lâu la cho họ. Chính Đặng Tiểu Bình thừa nhận rằng Trung Quốc chưa thể làm kiểu con cọp, con beo gì mà mới chỉ có thể làm kiểu con mèo như tư bản thôi. Tư bản làm kinh tế thị trường, Trung Quốc cũng phải xoay sang làm kinh tế thị trường. Tư bản thừa nhận tư nhân tham gia các hoạt động y tế, giáo dục, Trung Quốc cũng phải chuyển sang xã hội hóa y tế, giáo dục… Họ có theo Mác nữa đâu. Họ có làm chủ nghĩa xã hội nữa đâu. Nước của họ vẫn là Cộng hòa Nhân dân kia mà. Họ vẫn làm con mèo tư bản đấy chứ. Có điều là con mèo mang mầu sắc Trung Quốc còn dở hơn con mèo tư bản rất nhiều. Không những không giầu mạnh hơn mà còn bất công hơn, khoảng cách giầu nghèo ngày càng doãng xa hơn, dân chủ nhân quyền tồi tệ hơn…
Thế mà, họ không chỉ dụ dỗ, mua chuộc được một số kẻ nào đó bằng lời hứa bảo vệ ngai vàng và bằng tiền mà còn bằng cái gọi là ý thức hệ!
Việc gì Nông Đức Mạnh phải sang Trung Quốc để ra tuyên bố chung: “Hai bên cùng lập nhiều cơ chế hợp tác giữa các bộ, ngành, giữa các địa phương giáp biên giới hai nước, đặc biệt là cơ chế Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác Song phương để chỉ đạo và điều phối sự hợp tác Việt Nam-Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực”. Việc gì giữa thời bình mà phải tuyên bố: “Hai nước sẽ thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo”?… Rồi xây dựng đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam nối thẳng từ Trung Quốc vào Hà Nội. Rồi thường xuyên mở các hội thảo chung Trung – Việt để lĩnh hội chủ trương, đường lối xây dựng và bảo vệ chế độ…
Không biết người ta vô tình hay tình nguyện chấp nhận sự đô hộ mềm của ngoại bang một cách tội lỗi như vậy!
Sự nô lệ về ý thức hệ đã xúi bẩy và ép buộc người ta làm Cải cách Ruộng đất, giết hại hàng vạn đồng bào, đồng chí mình, trong đó có rất nhiều nhân tài kinh tế, nhiều người có công lớn với cách mạng. Rồi đẩy nhanh lên hợp tác xã cấp cao, phá họai nền nông nghiệp. Rồi diệt tư thương, tiểu thủ công, phá hoại công thương nghiệp… Thế chưa đủ đau xót sao, chưa đủ thúc giục lương tâm họ buộc họ phải thức tỉnh sao mà cứ u mê để ma đưa lối, quỷ dẫn đường mãi thế!
Cho nên, trong khi điều 4 Hiến pháp vẫn còn đó thì việc kịp thời ngăn chặn khả năng có một Tổng Bí thư thần phục Bắc triều là việc vô cùng hệ trọng không chỉ với Đảng CSVN, mà với cả dân tộc..
Hà Nội ngày 10 tháng 10 năm 2010
© 2010 Nguyễn Thanh Giang
© 2010 talawas
No comments:
Post a Comment