Có rất nhiều lý do để xác quyết cho khẳng định trên, nhưng chỉ xin đưa ra các điểm căn bản để xét đoán rằng: Dùng vũ lực với Việt Nam là không có trong kế hoạch dù ngắn hay dài của Trung Cộng, vì là:
1) Kinh tế tại quốc nội Trung Cộng đang trong chiều hướng phát triển quá cao, đang thu hút nhiều đại công ty nước ngoài có ký kết hợp đồng tại đây, nhất là Hoa Kỳ và đồng minh của siêu cường này. Trong khi đó, các đại công ty của Trung Cộng cũng đang phát triển lan rộng khắp thế giới. Do đó, Trung Cộng không dại gì lâm chiến để tự mình làm sụp đổ hệ thống chứng khoán đang thu hút nhiều khách hàng trên toàn cầu, cũng như lòng tin của các đối tác thương mại đang và sẽ đầu tư vào quốc gia có sức mãi lực này. Đây chính là thế “triệt buộc” mà điểm đầu tiên bắt Trung Cộng phải nghĩ tới khi đặt vấn đề chiến tranh với quốc gia láng giềng!
2) Tương đương về quyền lợi kinh tế nói trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam, dù là một phát súng bắn trả lại thì xem như mối ngoại giao bị gãy đổ, kéo theo các hợp đồng kinh tế mà phần lớn các kế hoạch khai thác quặng mỏ – thuê rừng trong ý đồ Hán Hóa của Trung Cộng cũng phải trì trệ dài hạn, có khi phải chấm dứt. Hay, lý lẽ cách khác, là kế hoạch Nam tiến của họ bị đổ vỡ. Từ đó có thể hiểu rằng, phát súng khai hỏa cảnh cáo và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam hôm nay, hoàn toàn khác xa với tiếng súng chủ động của Trung Cộng vào sáng ngày 17-2-1979, mà lịch sử cận đại của họ đặt tên cho cuộc chiến đó là Đối Việt Tự Vệ Hoàn Kích Chiến. Vì khi đó quyền lợi của họ không có gì tại Việt Nam, ngoại trừ chiến lược quốc tế nhưng đã hết công hiệu bởi cuộc chiến đã kết thúc vào năm 1975, trái lại, Trung Cộng phải chịu gánh nặng viện trợ quá nhiều và quá lâu với Miền Bắc, sau đó thấy đàn em phản bội theo Liên Xô nên dạy cho một bài học. Và Đặng Tiểu Bình cũng xác định được cuộc chiến đó không lợi lộc gì nên giới hạn về mặt thời gian. Quả thật kết quả mang lại là: Chó chết thì Mèo cũng bể bụng!
3) Một điểm hiện rõ nhưng ít ai để ý, sau sự thành công của cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông, tuy dứt điểm được các triều đại vua chúa phong kiến, nhưng nền ngoại giao của Trung Cộng vẫn theo lối “vỏ ốc”, tính tự cao tự đại đã tự phong bế lấy vị trí địa lý chính trị của họ, nên Trung Cộng không có đồng minh, không có bạn hữu, mà chủ yếu là kẻ thù. Khi Đặng Tiểu Bình phát hiện và mở cửa thì đã muộn, đất nước Trung Hoa đã bị vây kín 3 mặt, bởi, phía Bắc là nước Nga hùng mạnh có nguyên tử, phía Tây là Ấn Độ cũng có hạt nhân, phía Đông có 2 nước Triều Tiên, phần Bắc Hàn tuy là đồng chí nhưng cũng phải dè chừng vì họ có bom nguyên tử, còn phần Nam Hàn thì bị căn cứ quân sự Hoa Kỳ cản đường, nên duy nhất, Trung Cộng chỉ còn hướng Nam là Việt Nam, nơi có thể hiếp đáp để giải quyết nạn nhân mãn của họ!
Rất tiếc, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã không nhìn ra được sự yếu thế của đàn anh, để khi con Sư tử phương Bắc rống lên 1 tiếng dọa… thì con Rồng phương Nam cũng phải gầm lên 2 tiếng, có thế, thiên địa sẽ dịu êm, còn im lặng thì thú dữ sẽ ăn thịt ngay. Bao trang sử cổ của xứ Việt từng minh chứng điều đó!
Cũng từ yếu điểm trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam nghĩa là bắt ép đàn em theo đối thủ Hoa Kỳ, điều này khác nào họ tự động cô lập và làm yếu hơn thế chiến lược của mình.
4) Trung Cộng không có một lý do gì để chiếm đóng Việt Nam trên Đất liền, dù là ngắn ngày. Còn Hoàng Sa- Trường Sa thì họ đã chiếm rồi! Nhưng chính phát súng khai hỏa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam vào lúc này, thì có thể Trung Cộng sẽ lui về lại kế: Phù Để Trừu Tân, nghĩa là (bớt lửa dưới nồi), tạm hiểu là không nên ép Việt Nam quá, và dĩ nhiên, Trung Cộng sẽ đưa ra giải pháp có lợi hỗ tương mà lần này sẽ thành thật chứ không lừa lọc, dối trá, ỷ mạnh để độc chiếm quyền lợi tại Biển Đông. Vì họ thừa hiểu rằng, sự phát triển kinh tế mang tính “bùng nổ” của họ không tạo sự cảm tình với thế giới, nên, nếu họ mở cuộc chiến tranh thì vô tình chính họ đưa 2 tiếng Việt Nam đến với sự cảm tình của cộng đồng quốc tế, và Việt Nam theo con đường dân chủ thì họ sẽ tổn thất về mọi mặt tại quốc gia phía Nam quan trọng này.
BIỆN PHÁP TẠM THỜI (có lẽ) CŨNG LÀ DUY NHẤT
Đối chiếu và lượng định mọi tình hình khách quan và đặc tính chủ quan chính trị trong chiến lược của Trung Cộng, cũng như quá nhiều quyền lợi thiết thực hiện có của họ tại Việt Nam, có thể hình dung như một bàn cờ đã gài đặt mọi góc cạnh hết sức cao thâm và bí hiểm! Tuy với thế trận hiểm nghèo như thế, nhưng không có nghĩa là Việt Nam đã “cạn nước”, mà không có cách khai cờ phá trận để biến bại thành: Chiếu Tướng!
Bởi thế, nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam nào, có chí hướng bảo vệ chủ quyền quốc gia thì không nên ngồi đó mà suy ngẫm chịu thua, vì càng kéo dài thì bước tiến của Trung Cộng càng lấn sâu vào nội địa!
Năm 2010 có nhiều yếu tố thuận lợi trong chính trị, nhất là mặt tác động quốc tế rất hội đủ điều kiện tốt để chặn đứng âm mưu của Trung Cộng, dựa theo nguyên tắc bất di trong binh pháp là khi bị kìm hãm bao vây, thì phải tạo biến để khai thông mà biện pháp hữu lực và hữu lý nhất, là:
Quân Sự và An Ninh:
Thay vì, đặt nhiều hy vọng vào ngoại giao nhằm vận động liên minh quốc phòng trong mục đích xây dựng và ổn định khu vực, mà kết quả chỉ là “tốn nác, rác nhà ”.
Thì nay, Việt Nam nên lợi dụng ngay vào lúc là Chủ tịch luân phiên của khối Asia. Để huy động toàn bộ lực lượng Không quân – Hải Quân kết hợp cùng Bộ binh, lên kế hoạch và đơn phương triển khai tập trận tại các vùng duyên hải trọng yếu. (xin nhấn mạnh là: Đơn phương tập trận)
Tại sao phải đơn phương tập trận ngay vào lúc này???
Bất ngờ cho Trung Cộng chính là điểm này mà trong 35 năm qua, sau khi kết thúc cuộc chiến, quân đội Việt Nam im hơi lặng tiếng không thao dợt. Nhưng nay “đột xuất”..!
Chính những tiếng pháo rơi đạn nổ.. Bùm..Pằng.. tập trận trên biển, là tín hiệu gởi đến Trung Cộng như một sự tự tôn của dân tộc Việt Nam thách thức rằng:
- “Tôi chẳng sợ gì anh một chút nào, nếu anh ép-đánh tôi, anh sẽ mất sạch..”!
Nhưng, những tiếng súng “quậy sôi” Biển Đông này cũng là thông điệp gởi đến các quốc gia trong khu vực, thay vì, nói trên bàn hội nghị sẽ không bằng hành động, vì lịch sử thế giới chưa chứng minh có quốc gia tự do nào hỗ trợ quốc phòng cho một nước cộng sản lúc động binh! Dĩ nhiên, thoạt tiên, các quốc gia này không thích, có khi, họ sẽ phản đối qua ngoại giao, nhưng Biển Đông bị “hâm nóng” lên thì buộc lòng họ cũng phải tăng ngân sách quốc phòng, và tập trận, có khi đơn phương, rồi song phương, dẫn đến liên minh, và tất nhiên, các nước nước nhỏ yếu trong khu vực sẽ tự liên kết với Việt Nam, vì sự bành trướng của Trung Cộng là nỗi lo ngại chung!
Và, chính chiến thuật này mới đánh trúng huyệt đạo của Trung Cộng. Vì xưa nay, bản chất lãnh đạo từ cổ chí kim của họ luôn luôn bị nỗi ám ảnh lo sợ trong nội bộ, là các sắc tộc Mãn-Hồi-Mông-Hán sẽ kết hợp vùng lên xé nát nước Trung Hoa ra từng mảng nhỏ. Còn bên ngoài, họ rất e ngại các quốc gia khác liên kết chống lại, đó cũng là một phần lý do cốt yếu mà Trung Cộng cương quyết lập trường đàm phán song phương, chứ không đa phương như các nhà lãnh đạo Hà nội mong muốn về vấn đề Biển Đông! Biết thế, thì Việt Nam nên dùng cây dao chiến thuật trên để thọc sâu ngoáy mạnh vào tử huyệt của đối phương.
Thứ nữa là, chiến thuật đơn phương tập trận này, không chỉ tạo được sự chú ý cho các nước trong khu vực, mà còn cuốn hút và tìm được thêm sự ủng hộ từ các quốc gia lớn mạnh trong vòng đai Thái Bình Dương. Nhưng đặc biệt, có hai siêu cường tuy không ra miệng khuyến khích, nhưng sẽ nhảy đầm vổ tay hoan hô.. ..Vì nhờ Việt Nam “biết quậy”, nên họ “trúng mánh” qua việc bán vũ khí “đắt như Tôm tươi”, đó là Nga và Hoa Kỳ. Hiểu giản dị là như vậy!
Hay ngầm hiểu rằng, trong thế tiểu quốc gặp hoạn nạn như Việt Nam hiện thời, thì không sức mạnh nào có thể hóa giải mối bị bao vây này, bằng Hoa Kỳ. Cho nên, việc tập trận là một hình thức vừa gián tiếp vừa chủ động mời gọi siêu cường này “nhập cuộc” sớm hơn, trong tư cách là quốc gia lớn luôn có trách nhiệm ổn định hòa bình thế giới, do đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam phải bỏ đi cái thói “ăn mày mà cao ngạo”, để hiểu rằng Việt Nam cần gấp Hoa Kỳ giúp đỡ, chứ quy luật này không bao giờ ngược lại trong hoàn cảnh hiện nay!
Xét từ biện pháp tạm thời này, nếu ai đã từng dày công khảo cứu và hoàn thành Luận án sử ký nước Việt, thì sẽ thấy một điểm hiếm hoi từ thời có quốc hiệu Đại Việt đến nay, biết bao vị tiền nhân anh minh muốn đưa quốc gia vào quyền độc lập, nhưng vì xung đột quốc tế triền miên, tác động và ảnh hưởng vào Việt Nam mà quốc vọng bất thành! Nhưng chính ngay thời điểm này, vâng; đúng vào thời điểm “ngàn năm có 1” này! Nếu nhà lãnh đạo Việt Nam nào có tư duy giỏi, bình tỉnh và khôn ngoan, thì sẽ an toàn đưa quốc gia vào thế chủ quyền độc lập (có thể là vĩnh viễn), theo kiểu mẫu thể chế chính trị dân chủ như Nam Hàn-Nhật Bản-Đài Loan, với giai đoạn đầu, nhân sự bảo trợ của Hoa Kỳ qua quyền lợi hỗ tương.
B) Loại bỏ ngay các hình thức như Thủ tướng ban hành Nghị định về việc: cấp và kiểm tra giấy phép tàu thuyền đánh cá nước ngoài vào hành nghề trong lãnh hải Việt Nam, hay trang bị vũ khí theo sách lược nhân dân tự vệ, thật quá sức ngớ ngẫn và mỵ dân! Chính các Nghị định mang tính khờ khạo của giới lãnh đạo bạc nhược này, tự nó đã chỉ rõ cho Trung Cộng thấy hạ sách yếu kém mưu lược, nên cường độ lấn át của họ tăng hơn! Mà thay vào đó, là phải huy động lực lượng Hải quân liên tiếp tuần tiểu trên vùng biển Việt Nam để bảo vệ cho ngư dân lao động trên ngư trường, sẵn sàng đối xử nhân đạo theo luật quốc tế đối với các “ tàu lạ” khi gặp ách nước tai trời. Nhưng nghiêm minh cảnh cáo, nổ súng chỉ thiên, hoặc bắt ngay bất cứ tàu thuyền Trung Cộng hành nghề trên vùng biển quốc gia, cứng rắn xử phạt như họ đã từng xử phạt các ngư dân Việt Nam.
Và dù rằng, bộ chính trị Bắc Kinh rất bực mình trước các biện pháp này, nhưng đây là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia không hề gây hấn đụng chạm gì đến họ!
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước bé thế yếu, lãnh đạo khờ khạo thì các biện pháp “động binh” nói trên, chỉ tác dụng nhãn tiền nhằm chặn đứng những hành động ngang ngược thô bạo lấy mạnh hiếp yếu của Trung Cộng đối với ngư dân.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam không dùng biện pháp “cứng” để răn đe cảnh cáo, mà hoài công kéo dài tìm kiếm giải pháp “mềm”, thì kết quả chỉ là tạo lợi thế cho Trung Cộng tiếp tục dụng kế để thâu tóm thêm các cứ điểm quan trọng tại đất liền.
Và căn cứ vào một số sự kiện lịch sử từng xảy ra trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia từng chịu sự chi phối chính trị của Trung Cộng, có thể đưa ra một tiên đoán cũng là sự cảnh báo với các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng. Khi vào thời điểm khả dĩ làm chủ được tình hình, thì Trung Cộng không cần thiết đến chế độ CSVN tồn tại nữa hay không! Nếu cựu hay đương thời lãnh đạo Việt Nam nào có liên quan, cản trở đến chiến lược của họ, thì cục tình báo Hoa Nam sẽ “làm thịt” theo “đơn đặt hàng” bằng các hình thức thủ tiêu ám muội..vv.v.v.. ! Muốn chứng minh cái họa sát thân này có hay không, thì các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể nhìn lại cục diện chính trị của Campuchia hay Darfur trước đây, tất cả các quốc gia này đều là “sản phẩm bảo trợ” của Trung Cộng, với những cuộc thảm sát kinh hoàng, nhưng kết cục lãnh đạo của các quốc gia này không bị Trung Cộng giết thì phải chịu sự trừng phạt như Pon Pot và đồng phạm! Riêng trường hợp Việt Nam thì kết quả đen tối nói trên càng xảy ra sớm hơn, vì đảng cộng sản đang lắm phái nhiều phe, nhất là “phe Tàu, phe Mỹ”. Đặc biệt, khi chiến lược của Trung Cộng bị sự phản kháng mạnh mẽ từ dân chúng Việt Nam bằng những cuộc xuống đường biểu tình, thì Bắc Kinh sẽ càng gây rối loạn an ninh, tạo ra khủng hoảng xã hội càng nhiều theo kế: Sấn Hỏa Đả Kiếp (đốt lửa rồi theo lửa mà hành động), thì họ càng có lợi nhanh trong kết quả khống chế Việt Nam bằng cách cậy quyền hay xin phép, để có cớ đưa quân đội vào bảo vệ Hoa kiều và tài sản các dự án kinh tế của họ. Nếu xảy ra như thế; khi đó các nhà lãnh đạo Việt Nam có dám “to gan” từ chối không? Đó là giả thuyết về thượng tầng.
Còn hạ tầng thì giả định như: Đất đai, thổ nhưỡng “mặt bằng” tại Hà Nội-Sài Gòn hiện nay rất đắt giá, nhưng Trung Cộng cho đặc vụ, tình báo tạo nên những hình thức “xã hội đen” xung đột hình sự Tàu-Việt đẫm máu, khiến dân bản xứ lo sợ bán tài sản di chuyển nơi khác. Các “đại gia” từ Trung Cộng bay qua mua lại theo kế: Du Long Chuyển Phượng, và thành lập các tụ điểm ăn chơi, lâu dần, sẽ thành một Bắc Kinh nhỏ, hay Tân Thượng Hải ngay giữa các đô thị lớn Việt Nam, và tuổi trẻ bị cuốn hút vào đó, và chơi bời càng nhiều thì càng mau quên tổ quốc. Như thế, xâm lăng kiểu này rất là hợp pháp mà chẳng tốn viên đạn nào!
Tại sao các nhà lãnh đạo Việt Nam không nghĩ ra, mà lại lo sợ đánh thua Trung Cộng?
KẾT LUẬN CŨNG LÀ TÂM BÚT CỦA TÁC GIẢ
Hơn 5 năm trước, người Việt Nam không nghe tiếng phá đá nổ mìn của công nhân Trung Cộng xây đập thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông hay Sông Hồng, hoặc biết, nhưng cho là không quan trọng!
Nhưng hôm nay đây, người Việt hoảng hốt nhìn nhau tự hỏi rằng, những nhánh sông thân quen cạn kiệt dòng nước, trơ đáy phơi bùn dưới trời hạn hán, tất cả đồng khô hồ cạn là vì đâu, do ai?
Nguyên thủ 4 quốc gia vùng hạ lưu Mê Kông liên tục họp hành, năn nỉ Trung Cộng mở đập xả nước để cứu đời sống người dân. Nhưng cho dẫu lên án hay quỳ lạy thì hậu quả của dữ kiện đã trở thành quy luật Xin-Cho. Vì xét theo địa lý, Trung Cộng (có quyền) vô trách nhiệm đặt điều kiện: “Muốn cung cấp đầy đủ nước cho vùng hạ lưu thì phải trả cho họ cái gì?”.
Nêu lên hình ảnh “hấp hối” của vùng hạ du Mê Kông mà Việt Nam ở vào đoạn cuối “ung thư” để nhấn mạnh rằng, việc công nhân trá hình khai thác Bauxite Tây Nguyên, hay nơi thượng nguồn 10 tỉnh cho thuê rừng hôm nay, thì tự nó đã là một phần đất của Trung Cộng theo khế ước hợp đồng.
Những nhát cuốc xẻng để đào bới-cày xén bây giờ chỉ là công đoạn đầu tiên, cho một chủ trương Xin – Cho sẽ xảy ra trong tương lai ngay trên quê hương Việt Nam, và sự Xin – Cho này không chỉ áp đặt lên đầu người dân, mà thành phần đầu tiên phải chịu sự áp đặt này chính là lãnh đạo quốc gia, nếu muốn tồn tại!
Hay nói cách khác, là Việt Nam từ từ lệ thuộc và mất hẳn chủ quyền vì 2 nguyên tắc căn bản của kẻ đi xâm lăng, là triệt tiêu dân trí và cướp nguồn lợi kinh tế thuộc của nước bị xâm lăng.
Tất cả các điểm nêu trên đều là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia. Việt Nam cầu khẩn Hoa Kỳ và quốc tế giúp đở được không? Có lẽ, câu trả lời là: Không.
Điều đó chứng minh rằng, dù thế giới chung sống từ hòa đến đâu, thì quy luật mạnh sống yếu chết vẫn muôn đời tồn tại trong chủ trương chính trị và quân sự, và hơn ai hết, người lãnh đạo phải thấu triệt được sinh mệnh cũa tổ quốc và dân tộc, đặc biệt là lãnh đạo đương thời Việt Nam!
Hiểm họa vừa nêu trên, là bài học chính trị được viết bằng máu dành cho những ai là nguyên thủ quốc gia sau này, phải luôn luôn biết và nhớ về tầm quan trọng bởi vị trí địa lý chính trị của Việt Nam rất khác với các quốc gia trên thế giới. Vì đặc tính riêng biệt này, nên dù, quốc gia trải qua thể chế Cộng hòa hay Cộng sản, thì 2 yêu cầu căn bản phải được ưu tiên lên hàng đầu, đó là Quốc Phòng và Lãnh Đạo đi kèm với một chính sách Ngoại Giao “chừng mực-biết người biết ta”. Nhất là đối với quốc gia láng giềng Phương Bắc thì nhất định và cương quyết để không thể và không bao giờ phó thác số mệnh dân tộc vào nền ngoại giao: “Hữu Nghị và Hợp Tác”, cụm từ này chỉ ngụy hình cho những âm mưu tráo trở phi chính nghĩa.
Khi có được những yếu tố cần thiết như đã nói, thì mới đứng vững được trước một quốc gia khổng lồ ngạo ngược như Trung Hoa.
Cũng vì địa lý thiên ý và sự mất còn của mảnh đất này, mà trải dài hơn 900 năm từ 939 đến 1840, bao thế hệ tiên công phải kiên gan cố sức chống đở với 7 cuộc ngoại xâm, 2 lần nhà Tống, 3 lần nhà Nguyên, 1 lần nhà Minh, 1 lần nhà Thanh, nhưng dù Trung Hoa hùng mạnh đến đâu thì kết quả vẫn là thảm bại.
Qua sự dồn dập liên tiếp của các cuộc chiến tranh cổ đại đó, minh chứng một điểm rõ ràng, là các vua chúa của bất cứ triều đại phương Bắc nào, cũng luôn luôn có cùng một tham vọng và đeo đuổi cùng một chủ trương lấn chiếm Việt Nam, tư tưởng ngạo mạn: Thuận Ngã Giả Xương, Nghịch Ngã Giả Vong (lạy ta thì sống, chống ta thì chết), vẫn tồn tại với giới lãnh đạo Trung Cộng ngày nay, và mãi mãi.
Rất bất hạnh cũng là đáng tiếc! Vì hơn ai hết, giới đương quyền Việt Nam rất hội đủ điều kiện để đối đầu với nạn Hán xâm hôm nay. Bởi phần lớn, họ được sinh ra hay trưởng thành tại Miền Bắc, mảnh đất được thừa tự truyền thống quật cường của tiền nhân, thực tế hơn, các nhà lãnh đạo này từng được đào tạo và thành công trong việc cướp, dựng và giữ chế độ bằng một hệ thống gian manh, lọc lừa và dối trá. Chính cả 2 yếu tố Truyền thống và Hệ thống mà họ từng được hấp thụ và trui rèn này, rất khả dĩ, giúp cho họ đầy đủ mưu mô để chống lại một đối thủ nhiều mưu ma chước quỷ, giúp cho Việt Nam vượt lên cơn can qua đại họa này, tiếc thay, chính họ đồng cam tâm bán nước, đi ngược lại nguyện vọng dân tộc và sự trường tồn của quốc gia.
Vậy, có nên để chế độ này tồn tại nữa không???
Hay nói đúng hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN. Mà trong tình thế cấp bách hiện nay, Việt Nam cần phải có một chế độ dân chủ để tìm được những khuôn mặt lãnh đạo, mà ít ra, có được bản lỉnh chính trị độc lập như Ngô Đình Diệm, có tư duy sâu sắc và tiên kiến như Ngô Đình Nhu, có tính cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia như Nguyễn Văn Thiệu, cũng nhờ mệnh lệnh của ông cùng tiếng súng chống ngoại xâm của lực lượng Hải quân VNCH năm 1974, hay như tiếng súng của Hải quân Bộ đội năm 1988. Tinh thần bất khuất và sự nằm xuống của con dân nước Việt hôm qua, chính là bằng chứng hùng hồn cho lớp người hôm nay, hay mai hậu cất cao tiếng nói với thế giới rằng: HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM.
Vậy, tiếng súng nằm trong biện pháp vừa nêu trên, cũng nhằm bảo vệ ngư dân Việt Nam, nhằm thể hiện tính chủ quyền-nội bộ của một quốc thể, thì hà cớ chi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải lo sợ rụt rè!?
Rất có thể! Bài viết này đã vượt ra ngoài vị trí tác giả, và tính “vô tư ” của một bài báo, nên ắt rằng, tác giả sẽ bị cho là Diều Hâu hiếu chiến, hay… đôi điều gì đó!
Tuy nhiên, dù dưới mọi biên độ của quan điểm hay chính kiến nào thì tâm tình và suy nghĩ độc lập của người viết rất bình dị như nông dân Việt Nam rằng: Quốc-Dân Việt Nam là vạn đại!
Vui nào hơn, khi nhận được sự cảm thông thì vãn sinh xin tha thiết thọ ơn sâu-dài!
Trân trọng xin lỗi bạn đọc “tâm đắc” của tác giả, vì bài này dài nhưng không thể chia đôi. Kính ái gởi lời chào Việt Nam đến toàn thể quý vị.
© Nguyễn Duy Thành
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment