Pages

Thursday, November 4, 2010

Thư Hiệp thông thứ 3 với Giáo xứ Cồn Dầu, Giáo phận Đà Nẵng

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
            Kính thưa Quý Anh Lê Thanh Lâm, Nguyễn Hữu Liêm, Nguyễn Hữu Minh, Trần Thanh Việt và Quý Chị Phan Thị Nhẫn, Nguyễn Thị Thế.
            Kính thưa tất cả Anh Chị Em Giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu, Giáo phận Đà Nẵng, Việt Nam.
            Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
            Kể từ ngày 13-05-2010, lúc 6 Anh Chị Em bị nhà cầm quyền Cộng sản tại Đà Nẵng tống vào tù với tội danh gọi là “chống người thi hành công vụ” và “gây rối trật tự công cộng” theo điều 257 và 245 Bộ luật Hình sự của CS, cho tới ngày 27-10 vừa qua, khi Quý Anh Chị Em bị điệu ra trước vành móng ngựa như chiên ra trước miệng sói, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi đã luôn theo dõi, cầu nguyện, lên tiếng cùng với vô số đồng bào trong lẫn ngoài nước.   
      Và nay chúng tôi lại xin gởi đến Quý Anh Chị Em cùng tất cả bà con tại Giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng bức thư thông hiệp thứ 3 với những tâm tình sau đây :
            1- Chúng tôi cực lực phản đối toàn bộ vụ án trong đó Quý Anh Chị Em đã là nạn nhân xấu số của một nền pháp chế đầy bất công với những trò bẩn thỉu như sau :
            - Trong thời gian bị giam giữ thẩm cung, Anh Chị Em đã không được gặp thân nhân để có sự hỗ trợ tinh thần, gặp được luật sư để có sự cố vấn pháp lý, theo như luật lệ quy định. Trái lại Anh Chị Em đã bị khủng bố tinh thần, tra tấn thể xác, bị lừa gạt và ép buộc để phải nói theo ý những kẻ đầy thủ đoạn muốn Anh Chị Em vốn là nạn nhân trở thành tội phạm. (Bằng chứng là lời tường thuật của thân nhân Anh Chị Em sau lần gặp mặt đầu tháng 9 và thái độ hoảng loạn của nhiều Anh Chị Em trước tòa án vừa rồi).
            - Đang khi đó, thân nhân của Anh Chị Em ở nhà thì chịu hăm dọa khủng bố đủ điều, như bị phá rối việc làm ăn sinh sống, bị lùng sục các phương tiện thông tin liên lạc, bị cấm tiếp xúc với những người quan tâm, bị cấm nhận sự hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất xa gần, bị xúi giục chia rẽ nghi ngờ lẫn nhau, bị buộc phải cung cấp cho bên ngoài những thông tin sai lạc… Tất cả màn khủng bố này đã khiến cho gần 40 thân nhân của Anh Chị Em phải chạy trốn sang Thái Lan tỵ nạn. Ngoài ra, thân nhân của Anh Chị Em còn thiếu nhiều sự nâng đỡ ủi an, động viên bênh vực mà họ lẽ ra phải được, rồi nhất là bị hăm dọa, cấm cản tìm những luật sư đáng tin cậy cho Anh Chị Em và cuối cùng đã không được mời đến tham dự phiên tòa của thân nhân mình.
            - Trong chính hôm xử tòa 27-10 vừa rồi, ngoài việc thiếu sự ủng hộ của đồng đạo và thân hữu vì họ bị ngăn cản tham dự, bị cấm chụp ảnh, ghi hình hay giăng biểu ngữ, việc thiếu các luật sư công tâm thuộc văn phòng luật Cù Huy Hà Vũ (bị chánh án Tán Thị Thu Dung cấm cản cách vô lý và vô luật), Anh Chị Em còn bị chính quan tòa này (điển hình loại tay sai nô bộc của những lãnh đạo CS tội phạm) bịt miệng bằng nhiều cách như chỉ cho trả lời “có hay không”, chẳng được dài dòng biện luận, chẳng được đối chất với những kẻ vu cáo, chẳng được các luật sư (của 3 thân chủ) biện hộ cho hết lời… Quan tòa tán tận lương tâm này còn nhiều lần tuyên bố một câu vô tiền khoáng hậu, đúng phong cách Cộng sản vô thần : “Tại sao không phải thân nhân của bà Hồ Nhu (tại Cồn Dầu) mà lại tham gia đám tang ?” Rốt cuộc thì Anh Chị Em đã bị buộc hai tội mà Anh Chị Em không hề phạm là “chống người thi hành công vụ” và “gây rối trật tự công cộng”. Kẻ phạm tội đích thực chính là nhà cầm quyền CS tại Đà Nẵng (cụ thể là bí thư tỉnh ủy Nguyễn Bá Thanh) rắp tâm cướp đất đai nhà cửa của Anh Chị Em. Kẻ phạm tội đích thực chính là những công an mang tư cách côn đồ và những côn đồ mang sắc phục công an đã đàn áp Anh Chị Em và thân nhân liên tục kể từ đám tang bà cụ Hồ Nhu ngày 03-05-2010. Kẻ phạm tội đích thực chính là toàn bộ các cơ quan ban ngành nội chính ở thành phố Đà Nẵng : công an, viện kiểm soát, tòa án từ thành đến quận, vốn đã toa rập với nhau để kết tội Anh Chị Em và tuyên án Anh Chị Em trước khi tòa xử rồi, theo lời tiết lộ của chính Luật sư Cù Huy Hà Vũ.
            2- Chúng tôi tha thiết kêu mời Quý Anh Chị Em hãy can đảm và đồng lòng kháng cáo.
            Bản án của Anh Chị Em (12 và 9 tháng tù ngồi cho 2 người, 12 và 9 tháng tù treo cho 4 người còn lại, chưa kể thời gian thử thách quản chế) xem ra thấp hơn người ta dự doán hay hăm dọa, nhưng đó vẫn là một hình phạt bất công và là một vết đen bất lợi cho cuộc sống của bản thân và thân thuộc của Anh Chị Em sau này. Anh Chị Em cần kháng án để khẳng định mình hoàn toàn vô tội, để tố cáo nền pháp chế rừng rú (từ bộ luật hình sự đến thủ tục tòa án) của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, nhất là để ngăn ngừa một hậu quả lớn lao đích thực theo sau vụ án, một âm mưu thâm độc của các quan chức tại Đà Nẵng.
            Âm mưu thâm độc đó chính là họ sẽ dựa vào “tiền án tiền sự” của Anh Chị Em để hung hãn hơn trong việc bắt Anh Chị Em và toàn thể bà con Giáo xứ Cồn Dầu phải chấp nhận kiểm định, bán rẻ toàn bộ đất đai nhà cửa cho nhà cầm quyền (để họ bán thật đắt cho các công ty tư nhân xây dựng khu sinh thái), đi đến một nơi xa xôi mà tất cả Anh Chị Em sẽ phải mua lại đất ở với giá cao, sẽ phải mất những phương tiện sinh sống như tại Cồn Dầu lúc này, sẽ phải đối diện với một tương lai mờ mịt cho mình và cho con cháu (như bao nạn nhân bị giải tỏa nhà đất từ mấy năm nay tại Quảng Nam Đà Nẵng lẫn toàn cõi đất Việt). Và như thế là CS xóa sổ được một giáo xứ kỳ cựu của Giáo phận Đà Nẵng, theo chính sách phân sáp từ mấy chục năm nay của nhà cầm quyền vô thần tại tỉnh Quảng Nam và khắp cả nước.
            3- Chúng tôi chân thành đề nghị với Ủy ban Công lý Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam hãy bước tiếp trong việc đấu tranh cho Giáo xứ Cồn Dầu.
            Văn thư đề ngày 22-10-2010 của Quý Ủy ban gởi tới Chủ tịch UB Nhân dân thành phố Đà Nẵng và Chánh án Tòa án Nhân dân quận Cẩm Lệ đã gây niềm phấn khởi và hy vọng cho nhiều người Việt Nam, giáo cũng như lương, trong lẫn ngoài nước, vì đã yêu cầu giải đáp 4 “uẩn khúc” (thực chất là trình bày 4 “chất vấn”) cũng như nêu lên 3 đề nghị đều liên quan đến vụ xét xử. Nhà cầm quyền đã ngạo mạn bác đề nghị thứ nhất (hoãn việc xét xử để làm sáng tỏ những “uẩn khúc” nói trên) và chà đạp đề nghị thứ ba (nếu đưa ra xét xử, yêu cầu tiến hành theo đúng quy định của luật tố tụng hình sự với quyền của các bị cáo có luật sư biện hộ), cũng như không thèm giải đáp 4 “uẩn khúc” mà Ủy ban Công lý Hòa bình đã yêu cầu.
            Vậy thì trước mắt, để tiếp tục giữ uy tín của mình và giữ niềm tin của cộng đồng dân Việt, xin Quý Ủy ban nhanh chóng và quyết liệt hối thúc nhà cầm quyền CS hủy bỏ toàn bộ bản án và thực hiện đề nghị thứ hai : “Cho tiến hành đối thoại song phương giữa các hộ gia đình bị giải tỏa trong đó có các hộ giáo dân Cồn Dầu với Công ty Cổ phần Đầu tư Mặt trời về điều kiện và giá cả đền bù. Để cuộc đối thoại này được hiệu quả và công bằng, cần có sự tham dự của đại diện Nhà nước và đại diện Giáo hội”. Và về lâu về dài là tranh đấu đòi lại quyền sở hữu đất đai cho mọi công dân, đòi lại Công lý, Nhân quyền, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân Việt, theo đúng quan niệm văn minh của nhân loại hiện đại, đúng tinh thần các Công ước quốc tế Nhân quyền và đúng học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo.
             Văn thư ngày 22-10-2010 ấy tất nhiên đã đặt Quý Ủy ban vào một lựa chọn có tính quyết liệt sống còn. Nếu Quý Ủy ban quyết tâm tiếp bước theo Chúa Kitô chịu đóng đinh thì phải đứng hẳn về phía Dân nghèo đang bị bóc lột và đàn áp về mọi mặt; đứng hẳn về phía Sự thật, Lẽ phải như chính tên gọi Công lý-Hòa bình của mình, dù ngày càng phải đối mặt khốc liệt với quyền lực vô thần duy vật, bạo tàn gian dối, như sự mong đợi của mọi người có lương tri khắp thế giới, với những hành động cụ thể, uy dũng, hữu hiệu; chứ không chỉ đánh trống bỏ dùi, dừng lại ở việc lặp đi lặp lại vài nguyên tắc lý thuyết vô hồn, sẽ khiến cho công luận chê cười và càng thêm thất vọng như đã thất vọng về Hội đồng Giám mục Việt Nam từ hơn 30 năm nay.
            4- Sau hết, chúng tôi mong mỏi cầu chúc cho khoảng 40 Anh Chị Em gốc Cồn Dầu đang tỵ nạn tại Thái Lan sớm được thoát khỏi cảnh khó khăn thiếu thốn nơi xứ người, cảnh thường xuyên bị nhà cầm quyền CSVN tìm cách dụ dỗ, ép buộc hay bắt cóc để thủ tiêu hay đem về nước xét xử (như họ từng làm với mục sư A Đung, thượng tọa Thích Trí Lực và kỹ sư Lê Trí Tuệ cùng nhiều người khác tại Cam Bốt hay Thái Lan trước đây).
            Chúng tôi hy vọng rằng nhờ sự vận động đầy tình nghĩa đồng bào của cộng đồng người Việt hải ngoại và thân hữu quốc tế, nhất là tại Hoa Kỳ, Quý Anh Chị Em sớm được định cư ở nước thứ ba, sống cuộc đời mới đầy tự do no ấm. Chứ trở về Việt Nam (dù tự nguyện hay ép buộc), Quý Anh Chị Em sẽ bị trả thù khốc liệt và lâu dài, sẽ không thể sống xứng với phẩm giá con người, với những nhân quyền đầy đủ, bao lâu chế độ CS độc tài áp bức, phi nhân bất nghĩa, dối trá tàn bạo còn hoành hành tồn tại trên Quê hương chúng ta.
            Để kết thúc, chúng tôi nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ La Vang và các Thánh Tử đạo Việt Nam, ban phúc lành cho hết thảy quý Anh Chị Em Giáo xứ Cồn Dầu thân yêu và sớm đem linh hồn Tô-ma Nguyễn Thành Năm về chốn Thiên đàng hạnh phúc vĩnh cửu.
            Việt Nam, ngày 31-10-2010.
            Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền :
- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn.
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế.
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế.
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh.
Phụ Lục
1- Thư Hiệp thông thứ nhất
2- Thư Hiệp thông thứ hai
3- Vài tâm tình trước ngày xử án (21-10-2010)
            Trước ngày Anh Chị Em được tôn vinh trên Thập Giá Chúa Kitô khi bị đem ra đấu tố trước tòa án trò hề, chúng tôi xin gửi đến Anh Chị Em vài tâm tình vắn gọn như sau :
            1. Kính xin Chúa Kitô Tử nạn-Phục sinh, Đức Mẹ La Vang-Trà Kiệu, Thánh Cả Giuse, các Thánh Tử Đạo VN luôn ở bên cạnh 6 CON CHIÊN HIỀN LÀNH VÔ TỘI sắp được đem lên BÀN THỜ TẾ HIẾN vì Sự Thật, Công Lý và Hòa Bình, đồng thời luôn phù trợ và soi dẫn GHCGVN và tất cả chúng ta.
            2. Cuộc Hiến tế Hi sinh của Quí Anh Chị Em luôn hữu ích và cần thiết cho Tổ quốc và GHCG Việt Nam, chắc chắn được Chúa Kitô chúc phúc.
            3. Chúng tôi xin được vinh dự luôn ở bên cạnh tất cả Quí Anh Chị Em, đặc biệt là trong những giờ phút thử thách cam go nhất.
            4. Các hi sinh đau khổ của Quí Anh Chị Em đang thực sự đóng góp cho nền Dân chủ Tự do mà mỗi người chúng ta đang nỗ lực thúc đẩy mau đến cho Tổ quốc VN thân yêu của chúng ta.
            5. Sự thực hiển nhiên là các bất công và đau thương do CSVN đã, đang và sẽ chất nặng trên Anh Chị Em đang góp phần thúc đẩy làm chế độ CS bạo tàn và phi nhân càng sớm đến ngày chấm dứt hơn, vì qui luật của mọi thời là : BẠO QUYỀN CÀNG BẤT CÔNG ĐÀN ÁP CÀNG TỰ SÁT.
            Việt Nam, ngày 21-10-2010
            Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.
- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn.
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế.
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế.
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh.
26 NHÂN QUYỀN CƠ BẢN
đã được Công pháp Quốc tế và Liên Hiệp Quốc thừa nhận
& buộc mọi Nước thành viên phải cam kết tôn trọng.
26 MỤC TIÊU CỤ THỂ của Khối 8406
& mỗi Công dân có trách nhiệm phải đấu tranh
từng bước giành lại cho toàn Dân Việt Nam từ năm 2006 về sau.
            I. Các Nhân quyền về thân thể :
1. Quyền sống (không bị thủ tiêu, tàn sát, khủng bố, đe dọa, quấy nhiễu vì chính kiến, chủng tộc, tôn giáo, thành phần giai cấp).
2. Quyền không bị nô lệ hay nô dịch (vì lý lịch, chủng tộc, tôn giáo, chính kiến).
3. Quyền không bị tra tấn hành hạ (dưới mọi hình thức, mớm cung, bức cung).
4. Quyền không bị giam giữ độc đoán (vì các tội vu vơ chỉ có trong các chế độ độc tài : gây rối trật tự, phá hoại chính sách đoàn kết, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân chủ, xúc phạm lãnh tụ, tuyên truyền chống nhà cầm quyền,...).
5. Quyền được xét xử công bằng (tư pháp phải độc lập với hành pháp, lập pháp, công an).
6. Quyền được Tòa án bảo vệ (được bồi hoàn danh dự và thiệt hại).
7. Quyền được Luật pháp bảo vệ (không có loại tội tuyên truyền chống chế độ, chống đối chính sách).
8. Quyền được bình đẳng trước pháp luật (hiến pháp, pháp luật công bằng văn minh, có luật sư).
II. Các Nhân quyền về an cư :
9. Quyền tự do cư trú và đi lại, xuất ngoại và hồi hương (không bị quản chế hành chánh).
10. Quyền có đời sống riêng (bản thân, gia đình, nhà cửa, thư tín, điện thoại, điện thư được bảo vệ).
11. Quyền kết hôn và lập gia đình.
12. Quyền có quốc tịch.
13. Quyền tỵ nạn vì lý do chính trị, tôn giáo, chủng tộc.
14. Quyền tư hữu về vật dụng cá nhân, gia đình, tập thể, về đất đai và vốn kinh doanh.
            III. Các Nhân quyền về lạc nghiệp :
15. Quyền có việc làm, lương tương xứng và được nghỉ ngơi - giải trí.
16. Quyền thành lập và tham gia Nghiệp đoàn độc lập và quyền đình công.
17. Quyền có mức sống xứng hợp cho bản thân và gia đình.
18. Quyền có an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội khi thất nghiệp, già lão.
19. Quyền bảo vệ gia đình về hôn nhân, sản phụ, hài nhi, thiếu nhi, bình đẳng giới.
20. Quyền được chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh miễn phí hoặc hợp lý, được bảo hiểm y tế.
21. Quyền được giáo dục miễn phí cấp tiểu học, rồi trung học ; học đại học đầy đủ thuận lợi.
22. Quyền về văn hóa (tự do hưởng thụ, sáng tác, được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ).
            IV. Các Nhân quyền về Tự do Dân chủ :
23. Tự do tín ngưỡng - tôn giáo cách bình thường phổ quát như tại đại đa số các Nước trên thế giới.
24. Tự do tư tưởng, phát biểu, quan điểm, tự do thông tin ngôn luận, tự do báo chí.
25. Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, biểu tình; toàn Dân được trưng cầu ý kiến về quốc sự.
26. Quyền tham gia công quyền, tự do ứng cử - bầu cử bình đẳng không bị giới hạn bởi hiến pháp, luật pháp khi không có một bản án công bằng nào ràng buộc; Quyền tham gia xây dựng, bảo vệ và quản lý Tổ quốc. Tức là Quyền Dân tộc Tự quyết.
Lm TNLT Nguyễn Văn Lý sưu tập 01.10.2010
(Tham khảo “Từ Hiến Chương 1977 cho Tiệp Khắc đến Tuyên Ngôn 2006 cho Việt Nam”
của Ls Nguyễn Hữu Thống – 15.4.2006)

No comments:

Post a Comment