Nguyễn Thanh Giang
Dường
như lời cảnh báo xót xa của cựu ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng
Ngoại giao nước CHXHCNVN Nguyễn Cơ Thạch: “Thế là một cuộc Bắc thuộc mới
rất nguy hiểm đã bắt đầu!” cứ còn hắt mãi lên tiếng thở dài ẩn ức trong
lòng nhà báo Bùi Tín. Nhiều năm trước, đã hơn một lần tôi được đọc
những dòng viết của Bùi Tín về sự kiện này. Gần đây thấy lại càng như
gióng lên liên hồi cái điệp khúc trăn trở, hãi hùng đó:
Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp
này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc
Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được
ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch,
người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than
thở: «Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!»”.
- Trong bài “Bản chất chính quyền Đại Hán”: “Tình trạng bi đát
này của nhóm lãnh đạo Việt Nam đã kéo dài từ 21 năm nay, khi cả hai
chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của
bức tường Berlin và nhất là trước sự tan tành của Liên bang Xô viết và
phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc «chiến
tranh giữa 2 đồng chí thù địch» đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại
trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt trong cuộc hội ngộ Việt –
Trung ở Thành Đô – Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải
la hoảng lên là «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu» để
lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy
viên Bộ Chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang
bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt
đã dại dột chui vào.
Từ đó đẻ ra bao chuyện nhẹ dạ, hớ hênh, tội lỗi với dân với nước.
Hai hiệp định bất bình đẳng, mất đất, mất đảo, mất biển, mất tài
nguyên, tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc tràn vào khắp mọi vùng,
độc chiếm các món thầu béo bở nhất, từ mỏ bauxite đến hàng loạt nhà máy
điện, giành vị trí lao động phổ thông của người Việt mặc cho luật pháp
ngăn cấm. Lực lượng lao động này lập làng Trung Quốc ở Tây Nguyên, làm
đường chiến lược, khai thác hàng chục vạn hécta rừng dọc biên giới và
đầu nguồn. Đồng thời hàng giá rẻ kém chất lượng, chứa chất độc tràn ngập
đất nước ta, đồng Nhân dân tệ bắt đầu khuynh đảo thị trường tài chính
ngầm. Tai họa cực kỳ nguy cấp hiển hiện, rình rập khắp nơi”.
- Trong bài “Tình bạn Mỹ-Việt giữa hiểm họa bành trướng”: “Cuộc
đối thoại thứ 5 sẽ diễn ra ở Hà Nội năm 2012. Trong cuộc đối thoại này
đại diện phía Việt Nam là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình
Minh (con của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch; ông Thạch
từng nhận xét sau cuộc họp Việt – Trung ở Thành Đô cuối năm 1991 rằng
«một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu»)”.
Bùi Tín như cuống quýt lên vì sợ hãi. Bởi vì, theo ông bọn thù địch
ngoại bang này còn ghê sợ hơn ngàn lần tất cả những kẻ trước đây ta đã
phải đương đầu:
“Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một
thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim
Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể
tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi
tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi
chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc
hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên
lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của mình ở Đài Loan, dọa
dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng dìm trong biển máu cả 23 triệu dân
mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, còn là một nguồn đầu tư lớn
cho lục địa” (1).
“Bản chất lớn nhất của chính quyền Đại Hán là độc đoán bên trong và
bành trướng xâm lược bên ngoài. Trong xâm lược bên ngoài, chúng lăm le
nuốt chửng mọi nước láng giềng, tự nhận mình là trung tâm của thế giới,
không giấu giếm ý đồ lâu dài là làm bá chủ thế giới bằng mọi cách. Chúng
thôn tính một phần lớn Mông Cổ, toàn bộ Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu,
tiêu diệt quyền tự do, nền độc lập của các nước này, khẳng định láo xược
cái tội cướp nước khác bằng lá cờ ô nhục một sao đỏ lớn nằm trên 4 ngôi
sao nhỏ.
Sau khi thực hiện chiến tranh với Liên Xô mà chúng từng coi là người
anh Cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, với Ấn Độ là nước dân chủ lớn nhất ở
châu Á, nhưng bị giáng trả và ngăn chặn, hiện nay Bắc Kinh mưu đồ bành
trướng xuống phương Nam, ráo riết nô dịch hóa theo hình thức thuộc địa
kiểu mới các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Campuchia bằng những thủ
đoạn từ lộ liễu đến tinh vi, từ hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế – tài
chính – giáo dục – văn hóa, đẩy mạnh thương mại một chiều, làm đường xá,
khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang
đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh
đạo chính trị của các nước ấy bằng mọi cách thâm hiểm, hủ hóa bằng
tiền, gái, rồi đe dọa khống chế bằng tình báo, tập trung vào nhóm lãnh
đạo cao nhất, làm cho những người này tê liệt, mất khả năng phản ứng, há
miệng mắc quai, vì đã trượt quá sâu vào trong quỹ đạo quy phục làm bộ
hạ tay sai của chúng (2).
“ …cuốn sách mới Death by China (Cái chết từ Trung Quốc) của 2
học giả Peter Navarro và Greg Autry được giới thiệu rộng rãi trên toàn
nước Mỹ. Cuốn sách phơi bày mặt trái của hiện tượng «Phép lạ Trung Hoa»
(Chinese miracle), chỉ rõ Trung Quốc là tai họa cho toàn nhân loại, là
tên đế quốc mới thực sự, là tai ương cho chính dân tộc đại Hán, đang nô
lệ hóa nhân dân Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, đang bóc lột tận xương tủy
dân nước mình, đang xuất khẩu hàng xấu, hàng giả, hàng nhái, hàng chứa
độc chất ra khắp thế giới, đang bành trướng sang châu Phi, Nam Mỹ, đang
nô dịch hóa Đông Nam Á…”(3)
Trong ký ức Bùi Tín, cái bản chất Đại Hán không ngừng chảy rất ghê sợ trong huyết quản những tên thái thú Trung Quốc. Ông kể:
“Hồi 1951 khi tôi phụ trách trường đạo tạo sỹ quan sơ cấp của Sư
đoàn 304 đóng ở Thanh Hóa, một cố vấn Trung Quốc cấp Dinh (tiểu đoàn)
được phái đến trường, gọi là đồng chí Triệu. Lúc nào anh ta cũng nói
nhũn như con chi chi: «Mao chủ tịch phái chúng tôi đến giúp, nhưng chính
là để học tập các đồng chí. Chúng tôi không am hiểu kẻ thù, không am
hiểu chiến trường, ý kiến còn thô thiển, chủ quan, mong các đồng chí tuỳ
nghi lựa chọn và lượng thứ cho». Nhưng bất kỳ ý kiến lớn nhỏ nào của
anh ta mà chưa kịp thi hành anh ta tâu ngay lên thượng cấp để xử lý rất
găng. Sinh hoạt cũng vậy. Anh ta ăn riêng có thịt, có cá, có rượu bổ,
lại có ngựa cưỡi, có 3 người phục vụ: 1 cần vụ, 1 giám mã, 1 bảo vệ, đi
thao trường về là nằm ngửa có cần vụ bưng nước ấm đến để ngâm chân và
xoa bóp, nhưng lại luôn hát: chúng ta là con em nhân dân trăm họ, luôn
sống giản dị trong lòng dân, hết lòng phục vụ nhân dân, luôn nhường cơm
xẻ áo cho dân …” (2)
Song le, ông luôn tự hào về truyền thống chống Bắc thuộc của dân tộc mình: “Nhân
dân Việt Nam luôn kiên cường chống lại mọi hiểm họa ngoại xâm đến từ
phương Bắc. Lịch sử tồn tại và phát triển của Việt Nam từ xa xưa đến
ngày nay đã chứng minh sự thật ấy” (3)
Và vui mừng nhận thấy sức hậu thuẫn vô cùng lớn của quốc tế: “Cả
thế giới tiến bộ, từ Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Úc, Liên hiệp Châu
Âu, Hoa Kỳ, Canada…đều đứng về phía nhân dân ta chống hành động ngạo mạn
phi pháp của phía Trung Quốc…..Thái độ rõ ràng, kịp thời của Hoa Kỳ,
cường quốc số một của thế giới, trong cuộc khủng hoảng biển Đông là rất
quan trọng. Từ năm ngoái ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên bố
rằng «Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về thông thương trong vùng biển Đông
và Thái Bình Dương», làm cho đại diện Trung Quốc Dương Khiết Trì giận dữ
bỏ phòng họp ” (3).
Ông khẳng định: “Việt Nam đã chuyển từ thân Trung Quốc sang thân
Âu – Mỹ ư? Thế thì càng tốt hơn nữa. Theo nghĩa thân Trung Quốc là thân
Trung Quốc bành trướng kiểu Đại Hán, và thân Âu – Mỹ là thân những giá
trị tự do, dân chủ đa nguyên đa đảng trên cơ sở bầu cử thật sự tự do và
định kỳ (4) .
Ông nhìn nhận, như những nhà thông thái nhìn nhận: Trung Quốc chỉ là
con hổ giấy, là quả bong bóng mỏng bơm căng: “Một số chuyên gia kinh tế,
như Robert Fogel, giáo sư đại học Harvard Hoa Kỳ được tặng giải Nobel
về kinh tế; nhà bình luận Salvatore Babones cho rằng …Trung Quốc hiện là
nước mới giàu lên, nhưng còn rất nghèo, tổng sản lượng lớn là do dân
quá đông, hơn 1,3 tỷ dân, nhưng hiện thu nhập tính theo đầu người lại
đứng thứ 93 của thế giới – hơn 4.000 đôla/năm – chỉ bằng 1/10 của Hoa
Kỳ. Chất lượng phát triển rất thấp. Các nhà kinh tế – xã hội cho rằng từ
nghèo lên đến mức trung bình có thể là một bệ phóng, lại có thể là
một cạm bẫy. … Điều nguy hiểm ở Trung Quốc hiện nay là chênh lệch giàu
nghèo không những không thu hẹp, lại mở rộng ra ở mức quá đáng. Mới cách
đây 30 năm, Trung Quốc chỉ có vài tỷ phú đôla, nay đã lên đến gấn 200
tỷ phú, tỷ phú giàu nhất sắp được vào Ban Chấp hành Trung ương đảng CS.
Trong khi ở sâu trong nội địa, có vùng thu nhập bình quân chỉ đạt 1/10
mức trung bình. Hiện nay 1% dân số – chừng 12 triệu người thuộc phe
nhóm, gia đình, con ông cháu cha thế lực cầm quyền – nắm trong tay hơn
40 % tài sản quốc gia. Bất mãn xã hội tăng rõ rệt. Mất ổn định chính trị
do lòng dân không yên thêm trầm trọng. Bùng nổ xã hội là tất yếu. Hiện
nay một năm đã có hơn 300.000 cuộc đấu tranh, đình công, bãi công, phá
hoại công sở, nhà máy, gấp 6 lần 10 năm trước.Các học giả gọi tình trạng
đó là «bị sập bẫy của phát triển», «chui vào cạm bẫy của mức công
nghiệp trung bình», lãnh đạo thất bại trong việc «làm chủ chất lượng
phát triển», làm thui chột công cuộc phát triển vì không thay đổi cơ
chế, không chuyển đổi hệ thống cai trị.….Trung tướng Lưu Á Châu, chính
ủy Học viện Quốc phòng, công khai cảnh báo rằng Trung Quốc sẽ sụp đổ như
Liên Xô trước đây nếu không sớm từ bỏ chế độ hiện nay” (5).
- 2 -
Là con quan thượng thư dưới triều đình phong kiến nhưng Bùi Tín được
kết nạp Đảng rất sớm. Ông sinh ngày 29-12-1927 tại làng Liên Bạt, huyện
Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, tháng 9 năm 1945 đi bộ đội và tháng 3 năm 1946 (
19 tuổi) đã được kết nạp vào Đảng.
Ông được Đảng trọng dụng, được phong hàm đại tá khá sớm, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ năm 1972, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật từ năm 1988. Năm 1982 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ). Nhân Dân và Quân đội Nhân dân là hai tờ báo lớn nhất và tín cẩn nhất của Đảng.
Ông được Đảng trọng dụng, được phong hàm đại tá khá sớm, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ năm 1972, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật từ năm 1988. Năm 1982 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ). Nhân Dân và Quân đội Nhân dân là hai tờ báo lớn nhất và tín cẩn nhất của Đảng.
Việc Bùi Tín được kết nạp Đảng sớm và thăng quan tiến chức nhanh có thể được giải thích bởi hai lý do:
- Tuy là quan thượng thư nhưng lý lịch gốc của cụ Bùi Bằng Đoàn rất
cơ bản và trong sạch. Nhà nghèo, thường phải quét lá đa để đốt lên thay
đèn đọc sách nhưng 17 tuổi đã đỗ cử nhân Hán học rồi phải khai tăng thêm
3 tuổi để được vào trường Hậu bổ học tiếng Pháp. Được chọn vào triều
đình Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Suốt
mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung
kỳ, cụ vẫn giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối. Hồi đến nhậm
chức tri phủ Xuân Trường (1927), cụ cho treo cái bảng ở cổng phủ ghi rõ:
“Ai có việc hay đưa đơn, không được mang theo một lễ vật gì qua cổng
này”. Sau cách mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ ra làm việc.
Hai lần đầu cụ từ chối. Cụ làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ
cuối năm 1946 cho đến ngày mất, năm 1955. Người kế nhiệm Bùi Bằng Đoàn
là Tôn Đức Thắng, sau đó, đến Trường Chinh.
Hồi ở Việt Bắc, Bùi Bằng Đoàn và Hồ Chí Minh như hai bạn thơ tâm
giao. Bài “Tặng Bùi Công” có thể xem là một trong những bài thơ hay nhất
của Hồ Chí Minh:
Khán thư sơn điểu thê song hãn
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần lai lao dịch mã
Tư công tức cảnh tặng tân thi…
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần lai lao dịch mã
Tư công tức cảnh tặng tân thi…
dịch là:
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài
Bài họa của Bùi Bằng Đoàn:
Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc
Giang sơn vạn lý thủ thành trì
Tư công quốc sự vô dư hạ
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi
Giang sơn vạn lý thủ thành trì
Tư công quốc sự vô dư hạ
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi
dịch là:
Một lòng sắt đá phò nòi giống
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì
Chăm lo việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù
Một lòng sắt đá phò nòi giống
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì
Chăm lo việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù
- Bên cạnh nợ nước, Bùi Tín còn có mối thù nhà. Ông kể:
“Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất
trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như
con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong
kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng
nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi
ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính
Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi,
bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp.
Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường
Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng
là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các
chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc
mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết
chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua
trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng
phẳng” (6)
“Tôi thường nhớ đến những bạn bè thân thiết đã ngã xuống trong bom
đạn ở Triệu Phong, Quảng Trị, ở Điện Biên Phủ, trên đường số 9, ở Tây
Nguyên và ở miền Đông Nam Bộ…những nơi tôi từng đi qua. Tôi đã được sống
sót, may mắn hơn những anh em khác biết bao. Tôi sửng sờ khi nghe tin
người lái xe từng cấp cứu tôi đã chết trong một tai nạn xe cộ bất thần
hồi tháng 12 năm 1990, để lại 6 người con (4 cháu còn nhỏ), vợ anh lại ở
nông thôn cày ruộng, cuộc sống cực kỳ gieo neo. Anh cũng đã từng ở quân
đội, chuyển sang báo Nhân dân như tôi và tình đồng đội, tình cựu chiến
binh gắn bó hai chúng tôi” (6) .
Ông nâng niu trân quý cái chất lý tưởng xuất phát từ lòng yêu nước trong sáng:
“Lý tưởng xâm nhập tôi tự nhiên, sâu sắc ở tuổi 18. Tôi sống từ
đó lạc quan, hừng hực cả thời tuổi trẻ. Vào bộ đội, nhẹ tênh, phơi phới,
chỉ một bộ quần áo cũ, một chiếc áo len nâu cụt tay, thủng một lỗ ổ bên
ngực. Đại đội trưởng ở dịch hậu (hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng,
Quảng Trị), khi chưa tới 19 tuổi, lo chuyện súng đạn, gạo, muối, lo
chuyện trinh sát đồn địch, dẫn anh em đi phục kích, chan hòa với đồng
bào sống dọc những bãi cát, sung sướng với củ khoai luộc ăn cùng cà muối
của các bọ, các mạ (các bố, các mẹ), cũng có hồi cả đại đội bị sốt rét,
bị bệnh ghẻ lở sâu quảng-những vết lở tròn sâu hoắm-mà vẫn vui hát náo
nức trong các buổi lửa trại quân dân” (6)
- 3 -
Tháng 9 năm 1990 Bùi Tín sang Pháp dự Hội hàng năm của báo Nhân đạo
(l’ Humanité) rồi quyết định ở lại Pháp để có thể công khai đấu tranh
cho tự do dân chủ ở quê nhà. Bắt đầu lên tiếng trên BBC với ‘’Kiến nghị
của một công dân Việt nam‘’ mỗi ngày ông một quyết liệt hơn qua những
bài báo đăng trên Time, Far Eastern Economic Review, Washington Post, Le
Monde, Talawas, Đàn Chim Việt, Thông Luận, Đối thoại, Tổ Quốc …, qua
những phát biểu trên BBC, RFI, RFA, VOA. Với tư liệu đầy ắp, với sức
viết tràn trề ông còn cho xuất bản hơn chục đầu sách : Hoa Xuyên Tuyết,
Mặt Thật, Về 3 ông Thánh, Mây Mù Thế Kỷ, Cung Vua và phủ Chúa,’Tâm Tình
với Tuổi Trẻ Việt Nam, Following Ho Chi Minh, From Enemy to Friend và La
face cachée du régime ….
Cuống cuồng run sợ, người ta kết án ông là chống Đảng, phản bội Tổ
quốc, bất mãn, làm tay sai cho các thế lực Diễn biến Hòa bình; hệ thống
Tuyên giáo của ĐCSVN mở nhiều chiến dịch bôi bẩn, xuyên tạc, vu cáo
ông….
Không, nhà báo Bùi Tín không bất mãn cá nhân, bởi vì, như trên đã
thấy, ông từng được Đảng trọng dụng, được thăng quan tiến chức khá
nhanh.
Tất cả chỉ là do ông vốn là người tôn thờ cái cốt cách di truyền trong tầng sâu tâm khảm ông: « Tôi
không thể nào quên, cha tôi luôn nằm thẳng. Ngủ ban đêm hay ngủ trưa,
đều một mực như thế. Hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng. Suốt cả một
đời người, ông luôn ngủ với một tư thế không thay đổi. Đi từ nhà trên
xuống nhà dưới, đi bách bộ ở hành lang, hay ở trong sân nhà, cha tôi bao
giờ cũng đi đến góc, rồi rẽ phải hay rẽ trái, không bao giờ đi tắt. Tất
cả đều thành nếp sống và nếp nghĩ. Cũng có thể có người cho là lẩm cẩm.
Nhưng cái ngay thẳng của người “quân tử” là như thế, phải như thế.
Không thể nhượng bộ cho chính mìmh ” ( ), cho nên ông đằng đẵng bị cái “nỗi bất màn thánh thiện” dày vò. Ông từng tâm sự:
“Đã 15 năm nay, từ những ngày Hòa Bình, nhiều nỗi đau giằng xé lòng
tôi. Những nỗi đau không vật chất, không thể xác. Những nỗi đau ngấm sâu
trong tâm linh. Không phải nỗi đau của sinh, lão, bệnh, tử. Dù cho lưỡi
hái của Tử thần đã kề cổ tôi vào đêm 2-6-1989 ấy trong một cơn nhồi máu
cơ tim cực hiểm.
Đó là nỗi đau của tinh thần, của trí tuệ…
Đã bao lần tôi thầm thốt lên: Ôi! Số phận của con người!
Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất
Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là
giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người
lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng
trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau…Nhân danh lẽ phải?
Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nỗi
nữa!
Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc
sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để
Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng
Kiều hiện đại, đang nhan nhản trên các hè phố Hà Nội, Sài Gòn khi nắng
chiều vừa tắt” (6).
“Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ
tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một
nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận.
Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã
có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa,
nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết
ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của
chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ
nghĩa Mao… còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ
thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị
những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương
trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm
nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là “giải phóng!” Vậy
thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có
nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập,
nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận.
Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc
quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo
chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết” (7).
Ông kinh hoàng nhìn thấy những tà thuyết của Mác-Lênin-Mao Trạch
Đông- Xtalin không chỉ tàn phá đất nước ông, kìm hãm dân tộc ông mà còn
hủy diệt cả đất nước láng giềng:
“Tôi đã vào Campuchia ngày 7-1-1979 cùng một mũi tiến quân lớn
của bộ đội Việt Nam, sáng sớm đến sân bay Pochentong, trưa vào Hoàng
Cung và sau đó vào sứ quán Tàu, ngôi nhà lớn nhất của Pnompenh. Hàng vạn
người gầy ốm, ghẻ lở, ngơ ngác như ở địa ngục trở về, lang thang suốt
hơn 3 tháng trời trên các nẻo đường cát bụi, không giầy guốc, giữa nắng
gắt và mưa rào. Những hố chôn người tập thể rộng lớn, những cánh đồng
đầy đầu lâu, xương sọ vỡ của những người bị đánh chết, ám ảnh tôi hàng
chục ngày đêm ròng rã…Tất cả những điều rùng rợn ấy là từ một chủ trương
“xây dựng một xã hộ cộng sản trong sạch nhất, công bằng nhất, tinh
khiết nhất…”Tôi sững sờ tìm đọc và nhờ mấy anh bạn Campuchia dịch những
tập nguyệt san lý luận “Cờ đỏ” xuất bản trong những năm 1977 và 1978 để
hiểu rõ những cơ sở lý luận của những hành động tột cùng man rợ ấy, suy
nghĩ về khả năng tha hóa đến mức nào của những tư duy bệnh hoạn.Sau đó,
tôi sống trên các chốt tiền tiêu dọc biên giới Campuchia, Thái Lan với
người lính ” tình nguyện ” Việt Nam, 2 chữ tình nguyện này ngày càng trở
nên khó nghe và mĩa mai đối với tôi, chúng tôi chắt từng giọt nước đọng
trên lá chuối và lá cây báng súng vào chiếc đĩa nhôm để uống, lau mặt
và nấu cơm…Trên những chuyến bay định kỳ An-to-nốp 24 của Liên xô, tôi
từng trở về thành phố Hồ Chí Minh cùng anh em thương binh ta, phần lớn
bị cụt một hoặc hai chân do vấp mìn cá nhân của Trung Quốc chế tạo, ở
bên trong biên giới” (6).
Cho nên, năm 1982 ông đã gặp đại sứ Ngô Điền và thiếu tướng Lê Hai
phụ trách công tác chính trị quân Tình nguyện Việt Nam nêu nhận định và
phát biểu ý kiến khẩn thiết: “Tình hình hiện nay là bộ đội ta bị sa
lầy, chỉ có cách là rút sớm toàn bộ các đơn vị ta về nước, giao lại cho
bạn, và chuyển sớm cho Liên Hợp Quốc cùng Cộng đồng quốc tế giải quyết
vấn đề Campuchia, nếu không tình hình sẽ còn gay go cho đất nước ta hơn
nhiều”
Năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh được cử làm quyền
Tổng Bí Thư, Bùi Tín đã viết một bản kiến nghị dài 5 trang đánh máy, đề
nghị giảm số quân từ trên 1,6 triệu xuống 60 vạn trong 3 năm cho ngang
với mức trung bình của thế giới, đề nghị đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt
khoát cả về kinh tế và chính trị, thực hiện hòa giải với tất cả các nước
thù địch cũ: Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ.
Được mời thỉnh giảng ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tại Hội trường lớn
ở đây, tháng 4 năm 1990, nhà báo Bùi Tín đã dõng dạc phê phán: “Đảng
đã bao biện, ôm dồm, dẫm chân lên chính quyền quá lâu rồi, đã đến lúc
phải trả lại toàn bộ chính quyền cho các cơ quan dân cử. Có thể nói
chính đảng đã vi phạm có hệ thống hiến pháp là luật cơ bản của đất nước,
trong một thời gian dài. Hiến pháp chỉ rỏ rằng: nước ta, toàn bộ chính
quyền thuộc về tay nhân dân, thông qua các cơ quan dân cử là hội đồng
nhân dân và quốc hội. Nhân dân không bầu ra trung ương đảng và không bầu
ra bộ chính trị. Trung ương đảng và bộ chính trị quyết định những nội
dung, biện pháp, chỉ số, chính sách, về kế hoạch nhà nước trong 5 năm
hay trong 1 năm về nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp v. v…đều là
sai nguyên tắc, làm vậy là lấn quyền của quốc hội và hội đồng nhân
dân…” (6)
Dẫu sao, người ta vẫn thấy Bùi Tín chưa bao giờ gay gắt, cay cú, chưa
bao giờ nặng lời, thậm chí nhiều lúc ông thiết tha như day dứt chính
mình:
“Và xin bạn hãy yêu thương cả những người bất đồng chính kiến với
bạn, đừng bao giờ giận dữ, ghét bỏ, chửi mắng hay trong lòng khinh bỉ
và xỉ vả họ. Họ chỉ là nạn nhân của cả một học thuyết có mục đích rất
nhân văn (người không bóc lột người) nhưng với những biện pháp rất phi
nhân tính (đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, kích động căm thù ngút
trời, chiến tranh là phương pháp cơ bản, độc quyền chân lý) ; họ là nạn
nhân của thời cuộc, của một ảo tưởng khổng lồ, dai dẳng, của những điều
kiện lịch sử khách quan, ngoài ý muốn của họ; rồi mới đến họ là nạn
nhân của thái độ bị động, theo đuôi, nhu nhược, mù quáng dai dẳng của
chính họ” (8).
*
Thế đấy, Bùi Tín không hề phản động, cũng không bất mãn, không cơ hội, ông chỉ thực hiện sứ mệnh cao cả của một công dân chân chính, một trí thức có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc mình. Những người lãnh đạo trước đây do nhận thức kém cỏi lại hợm hĩnh, ‘kiêu ngạo cộng sản’ khi có chức có quyền nên đã đối xử rất tệ bạc với những người như Bùi Tín. Thế hệ lãnh đạo hiện nay như Đinh Thế Huynh. Nguyễn Phú Trọng ….- thuộc hàng học trò, hàng em nhỏ của ông – hãy khách quan hơn, tỉnh táo hơn mà nhìn nhận lại để sám hối, sửa sai, công khai xin lỗi ông và mời ông trở về. Đấy là những bước cơ bản cần thực hiện trong tiến trình hòa hợp, hòa giải ngõ hầu xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc.
Thế đấy, Bùi Tín không hề phản động, cũng không bất mãn, không cơ hội, ông chỉ thực hiện sứ mệnh cao cả của một công dân chân chính, một trí thức có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc mình. Những người lãnh đạo trước đây do nhận thức kém cỏi lại hợm hĩnh, ‘kiêu ngạo cộng sản’ khi có chức có quyền nên đã đối xử rất tệ bạc với những người như Bùi Tín. Thế hệ lãnh đạo hiện nay như Đinh Thế Huynh. Nguyễn Phú Trọng ….- thuộc hàng học trò, hàng em nhỏ của ông – hãy khách quan hơn, tỉnh táo hơn mà nhìn nhận lại để sám hối, sửa sai, công khai xin lỗi ông và mời ông trở về. Đấy là những bước cơ bản cần thực hiện trong tiến trình hòa hợp, hòa giải ngõ hầu xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc.
Ngày Bùi Tín bước vào tuổi 85
Hà Nội 29 tháng 12 năm 2011
© Đoàn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment