Thử nhìn lại chánh sách đoàn kết của Cộng sản Hà Nội qua thể nghiệm máu và nước mắt
- Lech Walesa: “Ðoàn kết phải có tự do”.
Hồ chí Minh đưa ra khẩu hiệu “Ðoàn kết, Ðoàn kết, Ðại đoàn kết” gồm
ba vế được cộng sản lần lược thực hiện ở Việt Nam suốt trong thời gian
dài từ đầu thập niên 40.
Chúng ta sẽ lần lượt điểm lại những chánh sách Ðoàn kết của Cộng sản
áp dụng ở Việt Nam để thấy khẩu hiệu đoàn kết của Hồ chí Minh được họ
thực hiện như thế nào .
Tới bao giờ mới …
Trước đây, từng có bao nhiêu người Việt Nam yêu nước đã nói tới chánh
sách đoàn kết của Cộng sản Hà Nội? Họ nói bằng tiếng nói của thể nghiệm
cay đắng, uất hờn, bằng nước mắt của tủi nhục và uất hận. Máu và nước
mắt của những người Việt Nam ái quốc lương thiện được người cộng sản lợi
dụng đã viết nên những trang sử đoàn kết của Cộng sản áp dụng trên đất
nước Việt Nam qua từng giai đoạn khác nhau, dưới những danh xưng khác
nhau như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc, và
ngày nay Nghị Quyết 36 của Chánh trị bộ đảng cộng sản Hà Nội .
Nhưng nước mắt và máu đổ ra trên khắp đất nước vẫn chưa đủ để giúp
những người Việt Nam yêu nước chân chánh ngày nay học được bài học đoàn
kết của người Cộng sản Hà Nội hay sao?
Từng lớp người Việt ái quốc trước đây, ái quốc nhưng không chấp nhận
Cộng sản, đã ngã gục dưới “lưỡi mã tấu đoàn kết” của Cộng sản vẫn chưa
đủ để phơi bày mặt thật của đoàn kết và mưu mô vận động quần chúng của
Cộng sản hay sao?
Ðến lúc nào thì đông đảo người Việt Nam yêu nước nhưng không Cộng sản
mới ý thức được rằng chánh sách đoàn kết của Cộng sản là một “cỗ máy
nghiền khổng lồ” mà chiều dài là lịch sử dân tộc, chiều rộng là đất nước
Việt Nam, sẽ nghiền nát tất cả những ai không được đảng Cộng sản thừa
nhận là nhân dân, tức là đối tượng để được đảng Cộng sản đoàn kết?
Chủ thuyết Cộng sản xâm nhập vào đất nước Việt Nam không còn là một
trào lưu tư tưởng như những trào lưu tư tưởng khác mà người Việt Nam có
quyền thâu nhận, hấp thụ nó hay gạt bỏ nó, đãi lọc nó theo qui luật tự
nhiên đối với sinh hoạt văn-hóa. Bởi nó đã hiện thân tiên phong bằng một
lực lượng quân sự núp dưới danh nghĩa kháng chiến giành độc lập, rồi
giải phóng dân tộc, sau cùng bằng một chánh quyền với cả một bộ máy công
an khổng lồ kèm kẹp, đàn áp, tiêu diệt tất cả cái gì cử động mà không
phải là nó, tức cộng sản.
Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Việt Nam từ trước 1945 đến nay,
vấn đề đoàn kết cần phải được đặt lại trên cơ sở mà theo đó những hoạt
động thực hiện đoàn kết có phù hợp mục tiêu đã đề ra khi kêu gọi toàn
dân đoàn kết hay không? Trả lời câu hỏi nầy, đơn giản nhứt có lẽ là nên
tìm hiểu các Mặt Trận của Cộng sản thành lập từ trước 1945 thì sẽ thấy ý
nghĩa Ðoàn kết hiển lộ rõ ràng.
Đoàn kết: Mặt Trận Việt Minh.
Người Cộng sản khi thành lập một Mặt trận thường căn cứ vào hoàn cảnh
và điều kiện của một giai đoạn lịch sử đòi hỏi. Mỗi giai đoạn có nhiệm
vụ và mục tiêu của giai đoạn.
Mặt trận Việt Minh ra đời tại Quảng Tây tháng 5-1941 với bức thư hiệu
triệu công bố ngày 8 tháng 9 năm 1941, dưới sự lảnh đạo của Hồ chí
Minh, vào lúc ở Việt-Nam, Nhựt đã đánh đổ thực dân Pháp và kết nạp
Việt-Nam vào hệ thống chiến tranh chống Ðồng Minh của Nhật.
Việt Minh hay Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh đã nói lên rõ ràng cái ý
nghĩa của mặt trận với những nhiệm vụ của giai đoạn lịch sử lúc ấy.
Trong “Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh”, “Việt Nam Độc Lập” là nhiệm vụ giải
phóng quốc gia dành độc lập; còn “Ðồng Minh” là nhiệm vụ quốc tế của Mặt
trận tham gia chống phát-xít, và chống phát-xít trên đất Việt.
Thật ra, trong tình hình Việt Nam năm 1941, nhiệm vụ chống phát-xít
Nhựt tư nó cũng đã đồng nghĩa với nhiệm vụ giải phóng dân tộc bởi
phát-xít Nhựt đã thay thế thực dân Pháp chiếm lấy Việt Nam rồi.
Nhưng Hồ Chí Minh, không theo tuần tự ưu tiên qua danh xưng Mặt Trận
Việt minh, trái lại nêu rõ lập trường tối hậu là đứng về phía Ðồng Minh
chống lại Ðức-Ý-Nhựt để tránh phải nói rõ ra là đã nhận lãnh nhiệm vụ ở
Nga thi hành đường lối của Đệ III quốc tế chiếm chánh quyền, áp đặt chế
độ cộng sản, và mặt khác, nhờ đó vận động sự yểm trợ của Ðồng Minh mà
Nga là thành viên. Nhưng đứng về phía Ðồng Minh để chống phát-xít mà lại
không có Quốc gia thì chủ lực đâu mà chống phát-xít?
Cho nên trong chủ trương của Mặt Trận Việt Minh, ngay lúc đầu, đáng
lẽ ra chỉ nên đặt vấn đề giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân
Pháp là chủ yếu, Hồ chí Minh lại đặt vấn đề chống phát xít là ưu tiên vì
chỉ muốn làm nhiệm vụ quốc tế phục vụ đường lối chánh trị Nga xô là
trên hết. Hồ chí Minh như vậy đã chủ trương bước xéo qua quốc gia dân
tộc mà đi ra quốc tế, nên khi Hồ chí Minh kêu gọi giải phóng dân tộc
giành độc lập là để nhằm lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân mà thôi.
Chính tinh thần luôn luôn “vì quốc tế” là ưu tiên, trên quốc gia dân
tộc, ngày nay được Đảng Cộng sản Hà nội thừa kế trong chủ trương chấp
nhận nhượng đất và biển cho Trung quốc, để giữ Đảng và chánh quyền theo
phe xã hội chủ nghĩa chư hầu của Tàu .
Giải phóng dân tộc đáng lẽ ra phải là một nhiệm vụ duy nhứt và thiêng
liêng nhứt của người dân mất nước, thì đối với Cộng sản Hồ chí Minh,
giải phóng dân tộc chỉ là điều kiện, là cơ hội để cướp chánh quyền nhằm
mục đích sau cùng là thực hiện chế độ Cộng sản. Điều này hoàn toàn đi
ngược lại nguyện vọng đích thực của toàn dân là chống thực dân Pháp và
phát-xít Nhậtt để gành lại chủ quyền quốc gia. Và người dân đã thực sự
đổ xương máu cho mục đích cao cả nầy. Do đó, Mặt Trận Việt Minh từ trong
chủ trương có sẵn bản chất chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc.
Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam vào những năm 40 vừa bừng tỉnh
thoát khỏi ách thực dân Pháp, Mặt Trận Việt Minh hay bất kỳ một tổ chức
nào đáp ứng được nguyện vọng độc lập, tự do của dân chúng thì đều có thể
tập hợp đông đảo các từng lớp xã hội. Lúc ấy, một lời nói “ái quốc” đã
làm rung động nhiều người. Tiếng “tự do”, “độc lập” trở thành một sức
mạnh phi thường. Bởi vì lòng yêu nước của dân chúng từ lâu bị đè nén,
nay có cơ hội bộc lộ thì hành động lập tức trở thành nhu cầu của mọi
người.
Không có ai cần thắc mắc, đắn đo, mọi người cần hành động. Phải hành
động để đem lại độc lập, tự do! Lòng mọi người hân hoan. Không tham gia
hành động, còn nghi ngờ, suy nghĩ, là làm mất ngay cơ hội dành lại độc
lập! Với những điều kiện tâm lý xã hội ấy, các tổ chức chánh trị, các
đảng phái công khai hoạt động. Mặt Trận Việt Minh liền đứng ra vận vận
dụng lòng yêu nước bồng bột và sức đấu tranh của toàn dân đang vươn lên,
hướng sức đấu tranh ấy vào mục tiêu của Mặt Trận khác hẳn với nguyện
vọng đích thực của toàn dân.
Nguyện vọng của toàn dân là nhằm mục tiêu duy nhất giải phóng dân tộc
giành độc lập. Còn Việt Minh lại tách nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm
hai nhiệm vụ Quốc gia và Quốc tế, mà Quốc tế là quan trọng hơn: “Cục
diện quốc tế biến chuyển mau lẹ. Cuộc chiến tranh dân chủ chống phát xít
quốc tế, do Liên xô cầm đầu đã tới mực cao độ. Mâu thuẫn giữa thực dân
Pháp và Phát-xít Nhựt ở Đông Dương ngày càng gay gắt. Do đó, chánh sách
đảng Cộng sản cũng phải chuyển hướng kịp thời” ( Trần huy Liệu, Lịch sử
cách mạng cận đại Việt Nam, Hà-Nội ). Và Trần huy Liệu còn nói rõ hơn:
“Việt Minh, tìm cách liên lạc với phe dân chủ và đem những khả năng giúp
đỡ quân Đồng Minh đánh Nhựt ở Đông Dương”. Đồng thời Hồ chí Minh nhận
tiền và vũ khí của Pháp nói để đánh Phát-xít nhưng thực tế là phát triển
đảng Cộng sản và chống lại các đảng phái quốc gia, với lời giải thích
lấy được “Vì Việt Nam dưới gót phát-xít Nhật cũng như Pháp dưới gót Quốc
xã Đức”!
Do đó với những sự thật không chối cải được về cái nhiệm vụ quốc tế,
Mặt Trận Việt Minh trong chánh sách đoàn kết đã làm cho nhiều người Việt
Nam yêu nước thật tình và sáng suốt lần lần phải xa lánh Việt Minh.
Từ 1941 đến ngày cướp chánh quyền ở Hà Nội ngày 19-8-1945, Mặt Trận
Việt Minh kêu gọi toàn dân đoàn kết. Hồ chí Minh cũng đã kêu gọi đoàn
kết: “muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết” (Võ
văn Kiệt, Báo Tuổi Trẻ 8/05) Trong bài báo trên, Võ văn Kiệt còn nói
thêm: “không chỉ có dân, mà cả vua nhà Nguyễn” cũng hưởng ứng. Thật vậy,
vua Bảo-Đại ban chiếu thoái vị để “làm dân một nước độc lập còn hơn làm
vua một nước nô lệ”.
Trước quốc tế, triều đình nhà Nguyễn đã ký những Hiệp ước năm 1862,
1884 đặt quốc gia Việt-Nam dưới quyền bảo hộ của Pháp. Tháng 3/1945, chủ
quyền Pháp trên đất Việt Nam bị Nhựt lật đổ, Bảo-Đại đã tuyên bố xóa bỏ
các Hiệp ước cũ và khôi phục lại quyền độc lập quốc gia, thực hiện sự
liên tục pháp lý quốc gia. Tháng 5/1945, Việt Minh cướp chánh quyền, lẽ
ra đã phải duy trì liên tục pháp lý ấy để căn cứ vào nền tảng đó mà kêu
gọi quốc tế thừa nhận Việt-Nam độc lập, đồng thời đoàn kết toàn dân.
Chẳng những không lợi dụng cơ hội thuận lợi này mà thu hồi chủ quyền
quốc gia và đoàn kết toàn dân, Hồ chí Minh buộc Vua Bảo-Đại thoái vị,
trao ấn kiếm cho Hồ chí Minh (ấn kiếm đã không nộp cho Việt Minh nay hãy
còn được cất giữ ? ) và ngày 11-9-1945, đảng Cộng sản Đông Dương, rồi
Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền Trần huy Liệu, tuyên bố rõ mục tiêu của
Mặt Trận Việt Minh theo đuổi: “Mặt Trận Việt Minh là do Đảng Cộng sản
Đông Dương lảnh đạo”. Thế là Hồ chí Minh và Trần huy Liệu đã mặc nhiên
phản lại tinh thần đoàn kết được ghi trong chiếu thoái vị mà Trần huy
Liệu đã cam kết thực hiện khi tiếp nhận bản văn nầy từ tay Bảo Đại !
Mất hết ủng hộ từ quốc tế đến quốc gia, Hồ chí Minh bèn mời Vua Bảo
Đại làm “cố vấn tối cao cho chánh phủ cách mạng”. Nhưng giá trị liên tục
pháp lý ở Vua Bảo-Đại không còn nữa.
Để giải quyết cái khó trước mắt, Hồ Chí Minh xoay qua kêu gọi Mặt
Trận Quốc Gia Liên Hiệp trong Nam gồm có Đảng Quốc Gia Độc Lập, Thanh
Nien Tiền Phong, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Việt Nam Phục Quốc Hội, Đệ
Tứ, Liên Đoàn Công Chức, sát nhập vào với Mặt Trận Việt Minh. Một Ủy Ban
Nam Bộ được thành lập gồm 9 ủy viên trong đó có 7 Ủy viên là Cộng sản.
Sự kết hợp này giúp Việt Minh nắm được chánh quyền Nam bộ để Trần văn
Giàu, Phạm ngọc Thạch, Nguyễn văn Tạo có đủ tư thế tiếp xúc với Cédile,
Đại tá Pháp, sửa soạn kế hoạch cho Pháp trở lại Nam-bộ.
Âm mưu đi với Pháp bị tố cáo. Không cần phải che dấu chủ trương theo
Cộng sản dưới chiêu bài đoàn kết nữa, Việt Minh liền ra tay ám sát Hồ
văn Ngà, tiêu diệt Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài và tất cả những người
không đi với Việt Minh.
Cuộc kháng chiến Nam bộ bùng nổ, toàn dân đứng lên chống Pháp thì
Việt Minh một mình tiến hành chiến dịch loại trừ các phần tử Quốc gia
không theo Việt Minh để độc quyền lảnh dạo kháng chiến và thỏa hiệp với
Pháp, nhưng thỏa hiệp không thành bởi De Gaulle muốn trở lại Đông Dương
để giử cho Pháp địa vị Đế Quốc, trong lúc đó cao trào chống Pháp của dân
chúng trong Nam quá mạnh.Việt Minh vì quyền lợi của đảng Cộng sản đành
phải tham gia kháng chiến.
Ở miền Bắc, Việt Minh nắm trọn chánh quyền. Chánh phủ liên hiệp chấp
nhận thỏa hiệp để Pháp đổ bộ lên Hải Phòng, Hà Nội, Nam Địnnh…Khi Hồ chí
Minh ký hiệp ước 6-3-1946, các đoàn thể và lực lượng võ trang trong Nam
phản ứng mạnh, không thi hành ngưng chiến: “Đ.m ! Chưa có độc lập mà
ngưng chiến cái c.c.!?” (Bảy Viễn tức giận nói). Trong lúc đó, ở miền
Bắc, cộng sản hợp tác với Pháp đi tuần tiểu trên đường phố Hà Nội, Hải
Phòng lùng bắt những ai còn tiếp tục chống Pháp. Việt Minh cùng với Pháp
mở những cuộc hành quân tận Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang để
tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Hồ Chí Minh trước kia, trong Phong Trào Đông Du, cũng đã từng hợp tác
với Pháp, bán cụ Phan bội Châu cho Pháp lấy tiền tổ chức đảng Cộng sản
và sau đó mật báo cho Pháp ở Hồng-Kông để chận bắt tại biên giới
Việt-Nam tất cả thanh niên qua Nhựt hoặc qua Tàu theo học Trường
Hoàng-Phố trở về, nếu họ không chịu gia nhập đảng Cộng sản (Hồ Chí Minh
ởTrung Quốc, Tưởng Vỉnh Kính, Huê kỳ). Hồ chí Minh chủ trương tiêu diệt
các đảng phái, các lực lượng yêu nước thật tình mà không theo Cộng sản
ngay từ lúc ông ta chưa trở về Việt Nam.
Khi kháng chiến bùng nổ, lệnh tản cư ban hành, ở Hà nội, một số lớn
tự vệ thành ở lại hăng say chiến đấu chống Pháp đều bị Cộng sản âm thầm
sát hại hoặc thông báo cho Pháp nơi ẩn núp hoặc đường di chuyển để Pháp
tiêu diệt.
Việt Minh chẳng những phá hoại đoàn kết dân tộc như đã hiệu triệu «
toàn dân đoàn kết chống Pháp » mà còn trắng trợn phản bội lại công cuộc
kháng chiến của toàn dân, tức phản bội Tổ Quốc, để chỉ nhằm phục vụ
quyền lợi Cộng sản đệ III quốc tế là trên hết.
Mặt Trận Việt Minh lúc bấy giờ được đông đảo người Việt hưởng ứng vì
lầm tưởng Việt Minh theo đuổi đường lối và chánh trị đấu tranh để giải
phóng dân tộc. Nhưng mục đích thật sự của Việt Minh là Cộng sản nên mới
di hại cho đất nước như ngày nay.
Đoàn kết: Mặt Trận Liên Việt.
Mặt trận Việt Minh chỉ là một tập hợp lực lượng dân chúng để giúp
đoạt chánh quyền, không thể làm hậu thuẫn mang tính đại biểu quần chúng
để giúp Hồ chí Minh quan hệ với ngoại quốc nên Hồ chí Minh phải cần một
tập hợp khác. Do đó, ngày 27 tháng 8 năm 1946, Mặt Trận Liên Hiệp Quốc
Dân Việt Nam ra đời, gọi tắt là Mặt Trận Liên Việt.
Mặt Trận Liên Hiệp Quốc dân được giải thích là để tập hợp rộng rãi
hơn các đoàn thể, các thành phần xã hội kể cả không chánh trị, chỉ nhằm
một mục tiêu chung duy nhứt là độc lập và dân chủ cho Việt-Nam. Mặt Trận
Liên Việt không chỉ tập hợp các đảng phái chánh trị như Mặt Trận Việt
Minh trước kia.
Về mặt lãnh đạo, Mặt Trận Liên Việt không đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của đảng Cộng sản. Ban lãnh đạo Mặt Trận Liên Việt dưới hình thức
Ủy Ban từ hạ tầng cơ sở đến trung ương chỉ gồm những cá nhân trong đó có
những cá nhơn đảng viên Cộng sản mà không nhơn danh Cộng sản. Nhờ khéo
léo che giấu bộ mặt thật Cộng sản, Mặt Trận Liên Việt khá thành công
trong việc tập hợp quần chúng, kể cả những người đã rời bỏ Mặt Trận Việt
Minh trước đây.
Mặt Trận Liên Việt đặt dưới quyền Chủ tịch danh dự là Hồ chí Minh,
Chủ tịch Chánh phủ và Chủ tịch thiệt thọ là Cụ Huỳnh Thúc Kháng, nên
được xem như là một tổ chức quốc gia chánh thức có nhiệm vụ đoàn kết
toàn dân, trong khi đó, Mặt Trận Việt Minh lại công khai do đảng Cộng
sản lãnh đạo và có nhiệm vụ tập hợp các đảng phái chánh trị để cướp
chánh quyền.
Những người cộng sản thì vẫn thấy tham gia Mặt Trận Việt Minh có ý
nghĩa hơn vì ít ra cũng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và có thành tích cướp
được chánh quyền, chớ Mặt Trận Liên Việt thì mới ra đời, chưa lập được
một thành tích nào hết. Trước tình hình đó, Mặt Trận Liên Việt chưa thay
thế được Mặt Trận Việt Minh nên Mặt Trận Việt Minh chưa giải tán.
Sự duy trì hai Mặt Trận song hành vẫn có lợi cho Cộng sản Hồ chí Minh
về mặt đoàn kết. Mặt Trận Việt Minh tập hợp các đảng phái chánh trị.
Còn Mặt Trận Liên Việt tập hợp từng lớp quần chúng phi chánh trị. Cả hai
đều thật sự đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản để làm hậu thuẫn yễm
trợ chánh quyền Cộng sản vừa mới ra đời.
Vận dụng đoàn kết, Mặt Trận Việt Minh từ trước tìm mọi cách tiêu diệt
các đảng phái chánh trị quốc gia không cộng sản đứng trong Mặt Trận.
Mặt Trận Liên Việt ra đời tiếp theo để thi hành nhiệm vụ tiêu diệt các
thành phần dân chúng xét thấy không thể giác ngộ cách mạng vô sản được.
Nhìn kỹ tình hình đất nước lúc bấy giờ, người ta sẽ thấy vai trò đích
thực của Việt Minh và Liên Việt là bước đầu đoàn kết các đảng phái
chánh trị không Cộng sản trong Mặt Trận giải phóng dân tộc dành độc lập
để ra tay tiêu diệt các đảng phái ấy, tức tiêu diệt lực lượng chủ lực
quốc gia chống thực dân Pháp, kế tiếp nhắm thẳng vào quần chúng, thẳng
tay loại trừ tất cả những ai không theo cộng sản.
Chuẩn bị giải tán Mặt Trận Việt Minh, Cộng sản chuyển cán bộ đảng
viên qua hoạt động trong Mặt Trận Liên Việt. Công tác của họ là đi sâu
vào quần chúng để đoàn ngũ hóa quần chúng bằng mọi thủ đoạn như chiêu
dụ, thuyết phục, hăm dọa và bạo lực.
Mặt Trận Liên Việt gồm đủ thành phần xã hội, có cả những người không
tham gia một hoạt động chánh trị nào hết. Mặt Trận chỉ đạo họ lên tiếng
hoan nghênh, ủng hộ, đóng góp theo chỉ thị của Ban lảnh đạo. Do đó, Mặt
Trận Liên Việt có vẻ vô hại, không nguy hiểm nên quần chúng gia nhập để
khỏi bị để ý là không hợp tác với Cách mạng.
Nhưng vô tình, dân chúng giúp cho Mặt Trận Liên Việt mượn sức mạnh
quần chúng để đàn áp quần chúng qua những chiến dịch phổ biến chánh sách
ta/địch, bạn/thù.
Đến tháng 3 năm 1951, đảng Lao Động chánh thức xuất hiện để lãnh đạo.
Chánh phủ cách mạng được củng cố nhờ ở cán bộ đông đảo và được huấn
luyện nhuần nhuyển về giai cấp đấu tranh, khủng bố, đàn áp.
Trong phe cộng sản, Trung Cộng vừa thắng thế và thiết lập chế độ cộng
sản trên toàn lãnh thổ nước Tàu. Biên giới hai nước thông thương. Tình
hình thuận lợi cho phía cộng sản ở Việt Nam hơn.
Những điều kiện chủ quan và khách quan đã cho phép Cộng sản Hà Nội từ
nay công khai hoạt động không sợ phản ứng bất lợi trong dân chúng. Hơn
nữa, Đại Hôi Đồng Liên Hiệp Quốc Gia, tức toàn thể dân chúng, đã hợp
thức hóa sự ra đời của Đảng Lao Động để lãnh đạo cách mạng Việt-Nam theo
lời giải thích chánh thức: “Đảng Lao Động Việt nam trong hiện tại
kháng chiến, trên những thành tích đấu tranh, trên ý thức giác ngộ, xứng
đáng đóng vai trò lảnh đạo các giai cấp”.
Và cũng từ đây, danh từ “giai cấp” được phổ biến rộng rải trong quần
chúng như một bài học mới về lý tưởng đấu tranh. Rồi vấn đề “giai cấp”
lại được đưa sâu vào Mặt Trận Liên Việt để nâng Mặt Trận Liên Việt trở
thành Mặt Trận của các “giai cấp”. Nhiệm vụ đoàn kết của Mặt Trận Liên
Việt giờ đây là “đoàn kết các giai cấp”. Phương thức đoàn kết các giai
cấp là “điều giải hợp lý quyền lợi giữa các giai cấp” như Trường Chinh
giải thích.
Mà muốn được đoàn kết, người dân phải giác ngộ giai cấp, tức phải trở
thành người Cộng sản chuyên chính bởi chỉ có người Cộng sản, đảng viên
đảng Lao động, mới đại diện quyền lợi của giai cấp lao động Việt Nam. Mà
quyền lợi của giai cấp lao động là quyền lợi dân tộc!
Khi Mặt Trận Liên Việt làm nhiệm vụ đoàn kết, áp dụng lý thuyết “điều
giải hợp lý quyền lợi của các giai cấp”, nhìn vào thực tế, chúng ta sẽ
thấy ý nghĩa thật của lý thuyết ấy là hướng dẫn cán bộ đảng viên biết
chọn lựa đi với ai, loại bỏ ai, vào lúc nào, với tội gì, bằng cách nào.
Việc làm nầy phải hợp lý để kịp thời giải thích trấn an quần chúng và
đàn áp những ai phản ứng mạnh.
Chủ trương đoàn kết của Mặt Trận Liên Việt vừa được áp dụng thì chẳng
bao lâu sau đó, đảng Lao Động đưa ra một chánh sách mới tiếp theo
“phóng tay phát động phong trào quần chúng đấu tranh”.
Quần chúng trong cuộc đấu tranh này sẽ được phân định ai là bạn, ai
là thù để làm xuất hiện những đối tượng đấu tranh. Phân định xong, đối
tượng đã rõ, phải qui định phương pháp, kế hoạch như “đột phá nhứt điểm
khai thông toàn diện, bố trí đấu trường… “.
Khi chánh sách đoàn kết của Mặt Trận Liên Việt diển ra, máu đã đổ,
thì người dân nhìn thấy đó không gì khác hơn là một cuộc chiến “nội
chiến” do chánh quyền cộng sản đẩy những người vô sản cộng sản chém giết
những người vô sản Việt Nam khác không cộng sản. Nói nội chiến vì những
người lãnh đạo cuộc chém giết này là chánh quyền với cả bộ máy võ trang
hùng hậu mở những cuộc công kích thẳng vào phía quần chúng bị xem như
là lực lượng đối nghịch phải tiêu diệt để giành phần thắng về mình.
Nhưng thật ra, nói cho đúng hơn thì đó chỉ là một cuộc chém giết đại
qui mô một chiều. Quần chúng vô sản, tức phe đối nghịch, chết đi rồi mà
vẫn chưa hiểu tại sao mình chết vì lời van xin, cầu khẩn chưa kịp thốt
ra.
Để giải thích tại sao có chiến dịch “quần chúng đấu tranh”, cộng sản
liền cho giáo dục quần chúng lòng căm thù giai cấp. Căm thù là tiêu
chuẩn đo lường tinh thần chiến đấu. Những lời chửi rủa, hành động tàn
ác, dã man đối với kẻ khác là đưa căm thù vào thực tế đấu tranh. Chửi
rủa, tàn nhẫn với những kẻ từng được kính trọng, yêu thương là thay đổi
mới quan hệ xã-hội, gia-đình. Chửi rủa khơi dậy tính độc ác sẳn có ở
trong con người để dẫn đến những hành động tàn bạo.
Thậm chí, trong chánh trị ngoại giao ngày nay, người ta vẫn còn nghe
người Cộng sản Hà-Nội gọi “thằng Mỹ, thằng Pháp” và ông “Trung Quốc, Ông
Liên xô”.
Trong chánh sách đoàn kết của cộng sản, địch phải chết trước, thù
chết sau đó và bạn được chết sau cùng. Đến khi có một biến cố chánh trị
xảy ra trong nội bộ đảng hoặc trong phe cộng sản thì một cuộc thanh lọc
hàng ngũ sẽ diễn ra để ta lại giết ta. Trường hợp gần đây và những nạn
nhân vẫn chưa được thanh thỏa, đó là vụ “xét lại chống đảng” hồi năm
1962 ở Hà-Nội và cả vụ “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Tưởng nên nhớ trong chánh sách “đoàn kết” của Mặt Trận Liên Việt,
những thành tích kháng chiến, những đóng góp hay hy sinh cho kháng
chiến, đều không được xem xét trong sự phân định thành phần quần chúng.
Bởi ai hiểu cuộc kháng chiến là để dành độc lập cho đân tộc là sai : «
kháng chiến là giai cấp đấu tranh trên một hình thức cao rộng », lời
Trường Chinh giải thích.
Chánh sách « đoàn kết » của Cộng sản Hà-Nội được một lần nữa thực
hiện sâu rộng trên miền Bắc khi họ dành được phân nửa đất nước nhờ xương
máu của toàn dân. Trong giai đoạn này, Hồ chí Minh thi hành rập khuôn
theo Trung cộng, không cần ý thức sự khác biệt hoàn toàn về tình hình
xã-hội Việt-Nam với Tàu . Thế là cuộc Cải cách ruộng đất bắt đầu. Đoàn
kết được đề ra là nhằm phản đế, quần chúng đấu tranh là phản phong .
Phản đế mà không phản phong , nghĩa là chống đế quốc thực dân dành
độc lập dân tộc mà không tiến hành giai cấp đấu tranh, là không ý thức
được vấn đề một cách trọn vẹn vì còn bị chi phối hoặc ảnh hưởng tinh
thần quốc gia hẹp hòi, tình cảm tiểu tư sản (tạch tạch sè), lãng mạn.
Thế là vấn đề phản đế được thống nhứt vào vấn đề phản phong làm một.
Chánh sách tiêu diệt quần chúng vô sản không cộng sản được lồng vào
chánh sách đoàn kết. Mà đoàn kết là để tiêu diệt.
Cuộc “cải cách ruộng đất” ở miền Bắc đầu thập niên 50, tiếp theo là
“sửa sai” đã giúp Hồ chí Minh tiêu diệt không dưới năm trăm ngàn
(500.000) nông dân vô tội. Suốt thời gian kháng chiến chống thực dân
Pháp, ở trong miền Nam, cán bộ đảng viên cộng sản từ Bắc gởi vào xâm
nhập hàng ngũ kháng chiến Nam bộ để thanh toán những người không chịu
khuất phục hoặc gia nhập đảng cộng sản.
Thi hành chủ trương trên, riêng Trần văn Giàu, vâng lệnh Hồ chí Minh,
một mình đã giết những trí thức tranh đấu yêu nước, vốn bạn bè và ân
nhân như Tạ Thu Thâu, Hồ văn Ngà, Nguyễn văn Sâm, …. Vậy mà ông còn giữ
một danh sách 2500 trí thức miền Nam phải tiêu diệt nhưng chưa kịp ra
tay thì bị triệu hồi về Hà Nội . Nạn nhân là những thành phần lãnh đạo
kháng chiến không theo cộng sản ở Miền nam (Hồi ký của Trịnh Hưng Ngẫu,
Sài gòn, 1973 – dành cho thế hệ này và thế hệ mai sau). Còn biết bao
nhiêu người nữa, ở miền Nam, vì sợ không giữ đoàn kết thì mất độc lập
nên không nỡ sớm tách ra khỏi Việt Minh. Lại còn những người không muốn
bỏ về thành phải bị mang tiếng Việt gian nên ở lại với kháng chiến. Tất
cả những người này lần lượt bị chết vào tay Cộng sản hết cả.
Nhiệm vụ của Mặt Trận Việt minh là đoàn kết các đảng phái chánh trị
để tiêu diệt chỉ còn lại đảng Cộng sản. Mặt Trận Liên Việt kế tiếp đoàn
kết các thành phần xã hội khác như các hội hè, các cá nhân, trí thức, tư
sản, nông dân, công nhân,… để lần lượt tiêu diệt theo quan niệm giai
cấp đấu tranh, chỉ còn lại một thành phần là giai cấp lao động vô sản
cộng sản.
Qua những đợt đoàn kết này, đảng Cộng sản trưởng thành, lớn mạnh và tồn tại đến ngày nay.
Đại Đoàn kết: Mặt Trận Tổ Quốc.
Mặt Trận Tổ Quốc được thành lập do quyết nghị của Đại Hội Đồng Mặt
Trận Liên Việt hợp phiên bất thường vào tháng 9 năm 1955 tại Hà Nội.
Sự ra đời của Mặt Trận Tổ Quốc là sự giải thể của Mặt Trận Liên Việt
cũng như trước đây sự ra đời của Mặt Trận Liên Việt là sự sửa soạn giải
thể Mặt Trận Việt Minh. Mặt Trận Việt Minh là để đoàn kết các đảng phái.
Mà đảng phái chỉ là những tập hợp một số quần chúng nên nhỏ hơn giai
cấp. Mặt Trận Liên Việt đoàn kết các giai cấp, mà giai cấp vẫn còn nhỏ
hơn toàn dân. Mặt Trận Tổ Quốc là một tập hợp lớn đoàn kết toàn thể quốc
dân.
Thật ra, Mặt Trận nào cũng tuyên bố là tập hợp hay đoàn kết toàn dân.
Nhưng trong quá trình tranh đấu, mỗi giai đoạn có những mục tiêu, hoàn
cảnh khác nhau. Nên toàn dân cũng vì thế có ý nghĩa khác nhau. Từ 1941
đến 1950, các đảng phái đại diện cho toàn dân; từ 1950 đến 1954, các
giai cấp thay mặt cho toàn dân ; từ 1955 trở đi, khi mà các đảng phái và
các giai cấp không phải ”vô sản không cộng sản” bị triệt tiêu một phần
lớn, thì toàn dân trở thành không ai khác hơn là “mỗi người dân”!
Giờ đây, vì đã tiếp thâu chánh quyền trên một nữa nước qua Hiệp định
Genève 54, Mặt Trận Tổ Quốc do đảng Lao Động chánh thức và công khai
lãnh đạo.
Cái trình tự Việt Minh – Liên Việt – Tổ Quốc thể hiện những bước đi
của đảng Cộng sản Hà-Nội từ bí mật ra công khai trước quốc dân, tiến lên
chánh trường quốc tế tại Hội nghị Genève về ngưng chiến với Pháp. Mặt
khác, các Mặt Trận Việt Minh – Liên Việt – Tổ Quốc là quá trình trưởng
thành của đảng Cộng sản được nuôi dưỡng bằng xương máu của các đảng
phái, các thành phần quốc dân tranh đấu vì lòng yêu nước mà không cộng
sản. Và đó cũng là quá trình chánh sách đoàn kết của Cộng sản để đi đến
mục tiêu cuối cùng “đồng hóa đảng với dân tộc là một”.
Cái thảm hại mà Mặt Trận Tổ Quốc hứa hẹn mang đến cho dân tộc Việt Nam nằm trong ý nghĩa đó.
Giờ đây dưới cái danh nghĩa Mặt Trận Tổ Quốc hiền lành, đảng Cộng sản
lãnh đạo một mặt trận đoàn kết trên các mặt xã-hội, văn-hóa, kinh-tế,
tôn-giáo, chánh-trị,… để thâm nhập vào tận từng suy nghĩ, ước mơ riêng
tư của mỗi người.
Có tập hợp mới xâm nhập được vào dân chúng để kiểm soát dân chúng và để dễ bề tiêu diệt những thành phần không thể giữ lại.
Trong quá trình thực hiện đoàn kết, thế lực đảng phái nào còn mạnh
thì Mặt Trận tôn trọng quyền lợi các đảng phái cho đến khi tiêu diệt
được hết các đảng phái, những thành phần xã hội không theo Cộng sản, có ý
chống lại chánh sách đoàn kết của đảng thì “điều giải hợp lý quyền lợi
các giai cấp” cho đến khi thanh toán sạch hết các giai cấp ấy.
Nguyên tắc đoàn kết của Mặt Trận Tổ Quốc là quyền lợi tổ quốc được
đồng hóa với quyền lợi của đảng Cộng sản nên nguyện vọng của toàn dân
không còn nữa, mà được thay thế bằng chủ nghĩa Cộng sản. Con đường thực
hiện nguyên tắc đoàn kết ấy dĩ nhiên là con đường tiêu diệt mọi ý thức
dân tộc, mọi nguyện vọng đích thực của quốc dân, loại trừ mọi phần tử
không theo chủ nghĩa cộng sản, mọi sinh hoạt kinh-tế, chánh-trị,
văn-hóa, tôn-giáo không phục vụ chế độ cộng sản.
Cái ý nghĩa đoàn kết trong Mặt Trận Tổ Quốc sau cùng chỉ là sự tận
dụng những năng lực xã-hội để thực hiện, duy trì và củng cố chế độ Cộng
sản.
Nghị quyết 36 …
Hỡi những người đã chết oan uổng với Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận
Liên Việt theo tiếng gọi đoàn kết và không thể chết một lần thứ hai nữa,
hãy sống lại để gia nhập Mặt Trận Tổ Quốc để đáp lại tiếng gọi thiết
tha “yêu nước”, “đoàn kết”, “xây dựng”, “phát triển”… Hãy sống lại gia
nhập Mặt Trận Tổ Quốc để nói lên những lời nói của máu và nước mắt, của
nhục nhã, tù đày, của tra tấn, đấu tố, của cực hình, của tập trung cải
tạo,… để làm sống lại những trang sử đoàn kết của đảng Cộng sản Hồ chí
Minh.
Hỡi những oan hồn đau thương này hãy về đây, tập hợp trong Mặt Trận
Tổ Quốc để giúp cho những người Việt Nam chưa được chết có đủ sáng suốt
nhìn tận bộ mặt thật của Mặt Trận đoàn kết của Cộng sản!
Ngày nay, Mặt Trận Tổ Quốc vẫn còn tồn tại để tiếp tục chánh sách
“đại đoàn kết toàn dân” của đảng Cộng sản Hà Nội. Thực tế thì Mặt Trận
Tổ Quốc can thiệp một cách thô bạo vào đời sống xã hội làm đảo lộn hoặc
thủ tiêu những giá trị truyền thống tốt đẹp. Trong tôn giáo, Mặt Trận Tổ
Quốc tổ chức công an làm tu sĩ. Cơ sở tôn giáo thì Mặt Trận Tổ Quốc
biến làm nơi thăm viếng du lịch. Về chánh trị, Mặt Trận Tổ Quốc thay mặt
nhân dân giới thiệu đảng viên ứng cử, loại bỏ những ứng cử viên tỏ ra
không tốt đối với đảng và hướng dẩn cử tri bỏ phiếu đúng đường lối của
đảng.
Trước sau, từ Mặt Trận Việt Minh đến Mặt Trận Tổ Quốc đều là những tổ
chức cực kỳ phản động làm công cụ cho đảng Cộng sản để tiêu diệt những
thành phần dân tộc không chấp nhận cộng sản mà hệ quả là sự khủng hoảng
trầm trọng xã hội và mất đất nước cho Tàu ngày nay.
Phá hoại trong nước chưa đủ, đảng Cộng sản còn ban hành Nghị Quyết 36
nhằm “đoàn kết người Việt hải ngoại” để thâu phục người Việt hải ngoại
về với đảng Cộng sản. Lần này, “lưỡi mã tấu đoàn kết” được đảng trao qua
tay Ban Việt KiềuTrung Ươngđảng.
Hỡi người Việt hải ngoại ! hãy rửa cổ sạch sẽ để đón nhận “lưỡi mã
tấu đoàn kết” nếu muốn hưởng ứng lời kêu gọi “đại đoàn kết dân tộc” của
Nghị Quyết 36!
Chánh sách đoàn kết của Cộng sản Hồ chí Minh từ hơn 60 năm qua trên
đất Việt vẫn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Chúng ta hãy nhìn thực tế:
Cộng sản và cả Hồ chí Minh, lúc chưa chết, có bao giờ thấy họ nhận sai
lầm trong những vụ chém giết người dân vô tội sống dưới chế độ cai trị
của họ đâu? Từ vụ cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, nhân
văn giai phẩm, xét lại chống đảng ở miền Bắc, đến cải tạo tập trung,
vùng kinh tế mới, đánh tư sản mại bản, đẩy dân ra biển thu vàng, phá
chùa chiền, đình miếu, nghĩa trang ở miền Nam sau 30-04-1975, đảng Cộng
sản và nhà nước Hà-Nội chưa có một lời nhận lỗi hay xin lỗi nhân dân.
Những chánh sách phản động này còn được tăng cường bằng những thứ luật
pháp ác ôn như Nghị Quyết của Thường vụ Quốc-Hội số 41 ban hành tháng 6
năm 1961 cho phép bắt giam người dân không cần xét xử, và Nghị định 31CP
cho phép địa phương giam giữ người dân vô thời hạn.
Chúng ta có thể khẳng định Đoàn kết chỉ có thể thực hiện được trên cơ
sở một nền dân chủ dân bản bởi “Đoàn kết thật sự phải có tự do” như Cựu
Tổng thống Lech Walesa của Ba Lan nói !
© Nguyễn Văn Trần
No comments:
Post a Comment