Henry A. Kissinger, Foreign Affairs, March/April 2012
(Xung đột là một sự lựa chọn, chứ không phải là một điều tất yếu)
Trần Ngọc Cư dịch
HENRY A. KISSINGER là Chủ tịch của Kissinger Associates và là một cựu Ngoại trưởng và Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ. Bài tiểu luận này dựa vào lời bạt của ấn bản bìa giấy sắp ra mắt của cuốn sách mới nhất của ông, On China (Bàn về Trung Quốc) do Penguin xuất bản, 2012.Foreign Affairs
Trong bài tiểu luận sau đây,
Henry A. Kissinger đưa ra ý kiến của một "lưỡng quốc công thần", cổ vũ
một sự hợp tác chiến lược bền vững Mỹ-Trung, tiếp nối tình hữu nghị mà
ông đã có công xây đắp kể từ khi hai nước ký kết Thông cáo chung Thượng
Hải 1972, củng cố một mặt trận đoàn kết Mỹ-Trung chống Liên Xô trong
thời Chiến tranh lạnh. Ông tỏ ra lo lắng về khả năng đối đầu của hai đại
cường trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Là
người Việt Nam, chúng ta không thể quên sự kiện lịch sử này : Trong
thời điểm Kissinger làm Bộ trưởng Ngoại giao, Chính phủ Mỹ đã khoanh tay
đứng nhìn Hải quân Trung Quốc đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa, lúc bấy giờ
nằm dưới chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh của Mỹ.
Bauxite Việt Nam
Ngày
19 tháng Giêng 2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
đã ra một tuyên bố chung vào lúc kết thúc cuộc thăm viếng Washington của
họ Đào, nói lên cam kết chung đối với mối quan hệ Mỹ-Trung “tích cực,
hợp tác, và toàn diện”. Mỗi bên trấn an bên kia về mối quan tâm chính
của mình, bằng cách tuyên bố, “Hoa Kỳ nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chào
đón một Trung Quốc vững mạnh, thịnh vượng, và thành công, có đủ khả
năng giữ một vai trò to lớn hơn nữa trong các vấn đề quốc tế. Trung Quốc
sẵn sàng coi Hoa Kỳ như một quốc gia châu Á-Thái Bình Dương có khả năng
đóng góp cho hoà bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.”
Từ
đó, hai chính phủ đã bắt tay vào việc thực hiện những mục tiêu được
công bố. Các quan chức hàng đầu của hai nước đã thăm viếng lẫn nhau và
cơ chế hóa những trao đổi của họ trên các vấn đề chiến lược và kinh tế
quan trọng. Những cuộc tiếp xúc giữa các phái đoàn quân sự hai nước đã
được tái khởi động, mở ra một kênh truyền thông quan trọng giữa hai quân
đội. Và ở một cấp độ không chính thức, cái gọi là những nhóm song hành
(track-two groups) đã thăm dò các khả năng diễn biến của mối quan hệ
Mỹ-Trung.
Nhưng trong khi sự hợp tác gia tăng,
những tranh cãi cũng gia tăng. Nhiều nhóm có ảnh hưởng trong cả hai nước
cho rằng một cuộc tranh giành vị trí siêu cường giữa Trung Quốc và Hoa
Kỳ là tất yếu và có lẽ đã diễn ra. Theo quan điểm này, những lời kêu gọi
hợp tác Mỹ-Trung có vẻ lỗi thời và thậm chí ngây ngô.
Những
cáo buộc lẫn nhau phát xuất từ các phân tích tình hình rất khác biệt
nhưng tiến hành song song trong cả hai nước. Một số nhà tư tưởng chiến
lược Mỹ lý luận rằng chính sách Trung Quốc theo đuổi hai mục tiêu dài
hạn: thay thế vai trò siêu cường Mỹ trong vùng Tây Thái Bình Dương và
củng cố châu Á thành một khối bài ngoại (exclusionary bloc) chịu thần
phục các lợi ích kinh tế và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Quan
niệm này cho rằng, mặc dù những khả năng quân sự tuyệt đối (absolute
military capabilities) của Trung Quốc không chính thức ngang hàng với
khả năng quân sự tuyệt đối của Mỹ, nhưng Bắc Kinh đủ sức tạo ra những
rủi ro khủng khiếp trong một cuộc xung đột với Washington và đang phát
triển những phương tiện ngày càng tinh vi để loại bỏ những ưu thế mà Mỹ
nắm giữ từ lâu. Khả năng tấn công hạt nhân đợt hai vốn là vô địch của Mỹ
cuối cùng sẽ bị cân bằng bởi một số lượng ngày càng gia tăng gồm các
tên lửa đạn đạo chống chiến hạm và các khả năng quân sự bất đối xứng
[asymmetric capabilities, lấy yếu chống mạnh] của Trung Quốc trong các
lãnh vực như mạng lưới internet và không gian. Một số người lo ngại rằng
Trung Quốc có thể giành được ưu thế hải quân có khả năng khống chế
xuyên qua một loạt chuỗi đảo ở vòng ngoài lãnh hải của mình, và một khi
tấm bình phong này thành hình, những nước láng giềng của Trung Quốc, vốn
lệ thuộc vào nền mậu dịch Trung Quốc và không tin chắc vào khả năng
phản ứng của Mỹ, có thể sẽ điều chỉnh chính sách theo sở thích của Trung
Quốc. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến sự hình thành một khối châu Á
khống chế khu vực Tây Thái Bình Dương trong đó Trung Quốc giữ vị trí
trung tâm. Bản báo cáo chiến lược Mỹ gần đây nhất phản ánh, ít ra một
cách ngấm ngầm, một số lo ngại này.
Cho đến nay,
chưa có một quan chức Trung Quốc nào tuyên bố một chiến lược như thế là
chính sách đích thực của Trung Quốc. Thật ra, họ nhấn mạnh những điều
ngược lại. Nhưng, chúng ta có đủ tư liệu trên báo chí bán chính thức và
trong các viện nghiên cứu của Trung Quốc để chứng minh phần nào lý
thuyết cho rằng quan hệ hai nước đang tiến tới đối đầu hơn là hợp tác.
Những
lo lắng chiến lược của Mỹ được phóng đại do các khuynh hướng mang tính ý
hệ, đó là phải chống lại toàn bộ thế giới phi dân chủ. Một số nhà
nghiên cứu lý luận rằng các chế độ độc tài tự thân là rất dễ sụp đổ nên
chúng buộc phải huy động hậu thuẫn dân chúng trong nước bằng luận điệu
lẫn hành vi dân tộc chủ nghĩa và bành trướng chủ nghĩa. Theo những lý
thuyết này – mà phiên bản của chúng vốn được nhiều bộ phận trong cánh tả
cũng như cánh hữu Mỹ đón nhận – thì sự căng thẳng và xung đột với Trung
Quốc phát sinh từ cơ chế nội bộ của Trung Quốc. Quan điểm này quyết
đoán rằng hòa bình thế giới sẽ phát xuất từ thắng lợi toàn cầu của thể
chế dân chủ chứ không do những lời kêu gọi hợp tác. Chẳng hạn, nhà chính
trị học Aaron Friedberg viết rằng “một Trung Quốc dân chủ tự do sẽ
không có lý do gì để sợ các nước dân chủ khác, lại càng không có lý do
để dùng vũ lực chống lại họ”. Vì thế, “ gác bỏ mọi tế nhị ngoại giao
qua một bên, mục tiêu nhiên hậu của chiến lược Mỹ [là phải] thúc đẩy một
cuộc cách mạng, dù là một cuộc cách mạng ôn hòa”, nhằm quét sạch chế độ
độc tài độc đảng của Trung Quốc và thay vào đó bằng một chế độ dân chủ
tự do”.
Về phía Trung Quốc, những lý giải mang
tính đối đầu đi theo một lô-gíc ngược lại. Họ thấy Mỹ là một siêu cường
đang bị tổn thương, quyết ngăn chặn sự trỗi dậy của bất cứ đối thủ nào,
mà Trung Quốc là đối thủ đáng nể sợ nhất. Một số học giả Trung Quốc
tranh luận rằng, dù Trung Quốc có ra sức hợp tác bao nhiêu đi nữa, mục
tiêu kiên định của Washington vẫn là bao vây một Trung Quốc đang trỗi
dậy bằng cách triển khai các lực lượng quân sự và duy trì các cam kết
bằng thỏa ước [với các nước trong khu vực] nhằm ngăn cản Trung Quốc đóng
lại vai trò lịch sử của mình -- một Vương quốc ở Trung tâm (the Middle
Kingdom). Theo quan điểm này, bất cứ một hợp tác bền vững nào với Mỹ là
tự chuốc lấy thất bại, vì một sự hợp tác như vậy sẽ chỉ phục vụ mục tiêu
chủ yếu của Mỹ là vô hiệu hóa Trung Quốc. Lắm lúc họ cho rằng sự thù
nghịch mang tính hệ thống đã nằm sẵn trong ảnh hưởng văn hóa và công
nghệ Mỹ, được hình thành dưới dạng thức các áp lực có tính toán được
thiết kế để xói mòn sự đồng thuận nội bộ và các giá trị truyền thống của
Trung Quốc. Các tiếng nói quyết đoán nhất tranh luận rằng Trung Quốc đã
tỏ ra thụ động một cách không thích đáng khi đối đầu với các xu thế thù
nghịch và rằng (chẳng hạn, trong trường hợp các vấn đề lãnh thổ ở Biển
Nam Trung Hoa) Trung Quốc cần phải trực diện đối đầu với các nước láng
giềng có tranh chấp biển đảo và tiếp theo đó, theo lời của nhà phân tích
chiến lược Long Đạo, “phải lý luận, tính toán trước và tấn công trước,
trước khi tình hình dần dần vuột ra ngoài tầm kiểm soát…bằng cách mở ra
một số trận đánh trên qui mô bé nhỏ có khả năng ngăn chặn những kẻ gây
hấn lấn tới thêm nữa”.
QUÁ KHỨ KHÔNG NHẤT THIẾT LÀ MỘT ĐOẠN MỞ ĐẦU
Như
vậy, liệu có một khởi điểm thích hợp cho việc tìm kiếm một quan hệ hợp
tác Mỹ-Trung và cho các chính sách nhằm thực hiện quan hệ đó hay không?
Chắc chắn là, sự trỗi dậy của các cường quốc trong lịch sử thường dẫn
đến xung đột với các nước đã có thế đứng vững chắc. Nhưng ngày nay tình
hình đã thay đổi. Không ai còn tin rằng các lãnh tụ từng hồ hởi tham gia
thế chiến năm 1914 lại dám làm như thế nếu họ biết rõ thế giới sẽ đổ vỡ
như thế nào vào lúc kết thúc cuộc chiến đó. Các nhà lãnh đạo ngày nay
không mang trong đầu những ảo tưởng như thế. Một đại chiến giữa các
cường quốc hạt nhân nhất định sẽ mang lại những tổn thất và biến động xã
hội vượt ra ngoài những mục tiêu có thể tính toán. Khả năng đánh phủ
đầu một nước khác gần như không thể xảy ra, nhất là đối với một thể chế
dân chủ đa nguyên như Hoa Kỳ.
Nếu bị thách thức,
Mỹ sẽ làm tất cả những gì phải làm để duy trì an ninh của mình. Nhưng
Mỹ không nên chấp nhận sự đối đầu như một chiến lược đáng lựa chọn. Với
Trung Quốc, Mỹ sẽ gặp phải một đối thủ có biệt tài qua hằng thế kỷ trong
việc lấy chiến tranh trường kỳ làm chiến lược và lý thuyết của họ luôn
luôn nhấn mạnh sự mệt mỏi tâm lý của đối phương. Trong một cuộc xung đột
thật sự, hai bên đều có khả năng và trí tuệ để gây ra những thiệt hại
khủng khiếp cho nhau. Vào thời điểm bất cứ một cuộc đại chiến giả tưởng
nào như thế kết thúc, tất cả các phe lâm chiến đều sẽ kiệt lực và suy
yếu hẳn đi. Lúc đó cả hai nước sẽ phải một lần nữa đối diện với chính
cái nhiệm vụ mà họ đang đối diện ngày nay: kiến tạo một trật tự quốc tế
trong đó Mỹ và Trung Quốc là những thành viên quan trọng.
Kế
hoạch ngăn chặn rút ra từ các chiến lược thời Chiến tranh lạnh mà hai
nước đã sử dụng để chống lại một Liên Xô bành trướng chủ nghĩa không còn
áp dụng được cho tình hình hiện nay. Kinh tế Liên Xô lúc bấy giờ vốn là
yếu kém (ngoại trừ các công nghiệp sản xuất quốc phòng) và không ảnh
hưởng lên kinh tế toàn cầu. Một khi Trung Quốc cắt đứt quan hệ và trục
xuất các cố vấn Xô viết, ngoại trừ những nước bị hút vào quĩ đạo Xô viết
bằng vũ lực, ít có nước nào có lợi ích to lớn trong quan hệ kinh tế với
Mácxcôva. Trung Quốc đương đại, trái lại, là một yếu tố năng động trong
nền kinh tế thế giới. TQ là đối tác thương mại chính của tất cả các
nước láng giềng và hầu hết các cường quốc công nghiệp phương Tây, kể cả
Mỹ. Một cuộc đối đầu kéo dài giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ thay đổi nền kinh
tế thế giới, để lại nhiều hậu quả bất ổn cho mọi quốc gia.
Trung
Quốc thấy rằng chiến lược mà TQ theo đuổi trong cuộc xung đột với Liên
Xô trước đây sẽ không còn phù hợp với một cuộc xung đột với Mỹ. Chỉ một
vài nước – trong đó không có một nước châu Á nào -- còn coi sự hiện diện
của Mỹ tại châu Á như là “những ngón tay” cần phải “chặt bỏ” (nói theo
từ ngữ máu me của Đặng Tiểu Bình dành cho các vị trí tiền đồn của Liên
Xô trước đây). Ngay cả các quốc gia châu Á không phải là thành viên các
liên minh quân sự với Mỹ cũng tìm kiếm những trấn an do một sự hiện diện
chính trị của Mỹ ở trong khu vực và do các lực lượng Mỹ trong các vùng
biển lân cận và coi đó như là một thế lực giám hộ cho cái thế giới mà họ
đã trở nên quen thuộc. Đường lối của các quốc gia này đã được một viên
chức cấp cao của Indonesia diễn tả với một người đồng nhiệm Mỹ như sau:
“Đừng từ bỏ chúng tôi, nhưng cũng đừng buộc chúng tôi phải lựa chọn phe
này hoặc phe khác”.
Việc Trung Quốc tăng cường
lực lượng quân sự gần đây tự nó không phải là một hiện tượng kỳ lạ: một
hậu quả bất thường hơn sẽ diễn ra nếu nền kinh tế lớn thứ nhì và là nước
nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên lớn nhất thế giới không chuyển đổi
sức mạnh kinh tế của mình vào việc gia tăng một số khả năng quân sự. Vấn
đề đặt ra là, sự tăng cường ấy phải chăng là không được hạn chế và nhắm
vào những mục đích nào? Nếu Hoa Kỳ coi mọi tiến bộ trong các khả năng
quân sự của Trung Quốc là một hành vi thù nghịch, Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng
bị vướng vào một chuỗi tranh chấp vô tận trên danh nghĩa của những mục
tiêu ít ai hiểu nổi. Nhưng Trung Quốc cũng phải ý thức, từ chính lịch sử
của mình, về đường ranh mờ nhạt giữa các khả năng phòng thủ và tấn công
và về các hậu quả của một cuộc chạy đua vũ trang không được kềm chế.
Các
nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ có đủ lý do vững chắc để bác bỏ những đòi
hỏi trong nước về một đường lối thù nghịch đối với Mỹ -- như họ đã từng
công khai tuyên bố. Lịch sử cho thấy sự bành trướng của các đế chế Trung
Quốc được thực hiện bằng sự thẩm thấu (osmosis) hơn là chinh phục bằng
vũ lực, hay bằng sự chuyển đổi sang văn hóa Trung Quốc của những người
đi chinh phục, những người sau đó đã đem chính lãnh thổ của mình sáp
nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Khống chế châu Á bằng đường lối quân sự sẽ
là một nỗ lực cực kỳ khó khăn. Liên Xô, trong thời Chiến tranh lạnh,
tiếp giáp một chuỗi gồm những nước yếu bị tát cạn nguồn lực vì chiến
tranh, bị nước ngoài chiếm đóng và lệ thuộc vào vào sự đồn trú của quân
đội Mỹ vì lý do quốc phòng. Trung Quốc ngày nay đối diện với Nga về phía
bắc; Nhật Bản và Nam Hàn, về phía đông; Việt Nam và Ấn Độ về phía nam;
Indonesia và Malaysia không nằm xa bao nhiêu. Đây không phải là một chòm
quốc gia dễ bị chinh phục bằng vũ lực. Tập hợp này có khả năng dấy lên
trong lòng người TQ nỗi sợ hãi bị bao vây. Mỗi một quốc gia này đều có
truyền thống quân sự lâu đời và sẽ đặt ra một trở ngại cực kỳ to lớn nếu
lãnh thổ hay khả năng điều hành chính sách độc lập của họ bị đe dọa.
Một chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc sẽ gia tăng sự hợp
tác của tất cả hay chí ít một số nước trong nhóm này, gợi lên cơn ác
mộng lịch sử của Trung Quốc, như đã diễn ra trong thời kỳ 2009-10.
ỨNG XỬ VỚI MỘT NƯỚC TRUNG HOA MỚI
Một
lý do khác để Trung Quốc phải biết tự chế, chí ít trong trung hạn (the
medium term), là tìm cách đối phó với người dân trong nước. Chênh lệch
kinh tế trong xã hội Trung Quốc giữa những vùng phần lớn được phát triển
dọc theo duyên hải và những vùng kém mở mang ở phía tây đã làm cho mục
tiêu “một xã hội hài hòa” của Hồ Cẩm Đào vừa bức thiết vừa trở nên xa
vời. Những chuyển biến văn hóa trong xã hội TQ cũng chồng chất thêm
nhiều thách đố. Những thập niên sắp tới sẽ chứng kiến, lần đầu tiên,
toàn bộ ảnh hưởng của chính sách gia đình một con lên xã hội người lớn
Trung Quốc (adult Chinese society). Sự kiện này chắc chắn sẽ thay đổi
những mô hình văn hóa trong một xã hội vốn có truyền thống là đại gia
đình phải có bổn phận chăm sóc những thân nhân già nua và khuyết tật.
Khi bốn người gồm ông, bà nội, ngoại cùng tranh giành sự chú ý của một
đứa cháu và đặt hết hi vọng vào nó -- những hi vọng trước đây thường
được phân tán cho nhiều đứa cháu -- thì một mẫu mực mới về sự thành đạt
và về những kỳ vọng to lớn, có lẽ bất khả thi, có thể phát sinh.
Tất
cả những phát triển này sẽ làm phức tạp thêm những thách đố trong giai
đoạn chuyển giao chính quyền của Trung Quốc bắt đầu từ năm 2012, khi
chức chủ tịch nước; phó chủ tịch nước; một đa số đáng kể các chức vụ
trong Bộ chính trị, Quốc vụ viện, và Quân ủy Trung ương; và hằng ngàn
các chức vụ quan trọng khác cấp quốc gia và cấp tỉnh sẽ được chuyển giao
cho các quan chức mới được chỉ định. Đa phần nhóm lãnh đạo mới này bao
gồm những thành viên của thế hệ đầu tiên trong vòng 150 năm nay được
sống suốt đời trong một đất nước hòa bình. Thử thách chính của họ sẽ là,
phải tìm ra một đường lối để đối phó một xã hội được cách mạng hóa do
các điều kiện kinh tế đang thay đổi, do công nghiệp truyền thông bành
trướng nhanh chóng chưa từng thấy, do một nền kinh tế toàn cầu tinh tế,
và do việc di cư hằng trăm triệu người từ nông thôn Trung Quốc vào các
thành thị. Mô hình chính phủ xuất hiện trong tương lai có thể là một
tổng hợp đề của các tư tưởng hiện đại và các quan niệm chính trị-văn hóa
truyền thống TQ, và việc tìm kiếm một tổng hợp đề như thế sẽ tạo ra
kịch tính liên tục trong sự tiến hóa của xã hội Trung Quốc.
Những
biến đổi xã hội và chính trị này nhất định sẽ được người Mỹ quan tâm
theo dõi với niềm hi vọng. Nhưng nếu Hoa Kỳ trực tiếp can thiệp vào nội
bộ TQ, thì đó là hành động thiếu khôn ngoan và phản tác dụng. Làm đúng
nghĩa vụ của mình, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bày tỏ quan điểm về các vấn đề
nhân quyền và một số trường hợp cá nhân. Và hành vi ứng xử thông thường
của Washington sẽ là luôn luôn bày tỏ sự yêu chuộng các nguyên tắc dân
chủ của người dân Mỹ. Nhưng một đề án có hệ thống nhằm chuyển đổi các cơ
chế Trung Quốc bằng sức ép ngoại giao và trừng phạt kinh tế rất dễ đưa
đến hậu quả ngược lại và cô lập chính các nhà dân chủ mà đề án này có ý
định giúp đỡ. Tại Trung Quốc, đề án này sẽ bị một đa số đáng kể giải
thích theo lăng kính dân tộc chủ nghĩa, gợi lại những kỷ nguyên Trung
Quốc chịu đựng sự can thiệp của nước ngoài trước đây.
Điều
quan trọng mà tình hình này đòi hỏi không phải là một sự từ bỏ các giá
trị Mỹ nhưng là một sự phân biệt giữa việc khả thi và lý tưởng tuyệt
đối. Không nên coi quan hệ Mỹ-Trung là một trò chơi bên lở bên bồi (a
zero-sum game), bên này được thì bên kia phải mất, cũng không thể cho
rằng sự trỗi dậy của một Trung Quốc phồn thịnh và hùng mạnh tự thân là
một thất bại chiến lược của Mỹ.
Một đường lối
hợp tác sẽ chống lại các thành kiến của cả hai phía. Hoa Kỳ không có
nhiều tiền lệ trong lịch sử quốc gia mình về việc thiết lập quan hệ với
một nước có diện tích tương đương, có tự tin, có thành tựu kinh tế và
tầm cỡ quốc tế, với một nền văn hóa và hệ thống chính trị khác biệt.
Lịch sử cũng không cung ứng cho Trung Quốc những tiền lệ về cách ứng xử
với một ông bạn đại cường (a fellow great power) với một sự hiện diện
thường trực tại châu Á, một viễn kiến về các lý tưởng phổ quát không phù
hợp với quan niệm của người Trung Quốc, và các liên minh quân sự với
một số nước láng giềng của Trung Quốc. Trước Mỹ, tất cả các nước chiếm
một địa vị như thế đã thể hiện điều này như một khúc dạo đầu (a prelude)
dẫn đến âm mưu thống trị Trung Quốc.
Đường lối
đơn giản nhất để tiến tới việc hình thành chiến lược quốc gia là nhắm
vào các đối thủ tiềm năng có sức mạnh áp đảo với nguồn lực và phương
tiện chiến tranh ưu việt. Nhưng trong thế giới đương đại, đường lối này
hiếm khi có thể thực hiện. Như một điều tất yếu, Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ
tiếp tục là những thực tế lâu dài đối với nhau. Không nước nào có thể
phó thác an ninh của mình cho nước kia – không một đại cường nào chịu
làm như vậy trong thời gian lâu dài – và mỗi nước sẽ tiếp tục theo đuổi
những lợi ích quốc gia của mình, đôi khi gây tổn thất cho nhau. Nhưng cả
hai đại cường đều có trách nhiệm phải xét đến những cơn ác mộng của
nhau, và cả hai sẽ phải làm tốt để nhận ra rằng luận điệu tuyên truyền,
cũng như các chính sách hiện nay, có thể nuôi dưỡng những mối ngờ vực
lẫn nhau.
Nỗi sợ hãi chiến lược lớn nhất của
Trung Quốc là, một hay nhiều cường quốc bên ngoài sẽ bố trí lực lượng
quân sự chung quanh biên giới Trung Quốc, có khả năng xâm phạm lãnh thổ
Trung Quốc hay can thiệp vào các định chế nội bộ. Trong quá khứ, mỗi khi
xét thấy mình đang đối đầu một mối đe dọa như thế, Trung Quốc đã chủ
động tiến công hơn là chấp nhận rủi ro nhận lãnh hậu quả của điều mà họ
cho là những xu thế [chiến tranh] đang hình thành -- tại Triều Tiên năm
1950, với Ấn Độ năm 1962, dọc theo biên giới phía bắc với Liên Xô năm
1969, và với Việt Nam năm 1979.
Nỗi sợ hãi của
Mỹ, đôi khi chỉ được biểu lộ một cách gián tiếp, là thấy mình bị một
khối có chủ trương bài ngoại đẩy ra khỏi châu Á. Hoa Kỳ tham dự thế
chiến chống lại Đức và Nhật để ngăn chặn một hậu quả như thế và dưới các
chính quyền của cả hai đảng đã thực thi một số chính sách ngoại giao
Chiến tranh lạnh mạnh mẽ nhất đối với Liên Xô cũng vì mục đích này.
Trong cả hai sự kiện nói trên, điều đáng lưu ý là, những nỗ lực hỗn hợp
Mỹ-Trung được nhắm vào việc chống lại mối đe dọa của một bá quyền mà hai
nước đã nhận ra.
Các quốc gia châu Á khác sẽ
nhấn mạnh đặc quyền phát triển các khả năng của mình vì những lý do
riêng của nước họ, không tham gia vào một cuộc đọ sức của các cường quốc
bên ngoài. Họ sẽ không muốn đặt mình trong một trật tự triều cống được
phục hồi trở lại. Họ cũng không muốn coi mình là những thành tố trong
một chính sách ngăn chặn của Mỹ hay trong một đồ án của Mỹ nhằm thay đổi
các định chế nội bộ của Trung Quốc. Các quốc gia này chỉ muốn có quan
hệ tốt dẹp với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ và sẽ chống lại bất cứ áp lực
nào buộc họ phải lựa chọn giữa hai nước.
Liệu
mối sợ hãi về một bá quyền và cơn ác mộng bị bao vây quân sự có được hóa
giải không? Liệu có thể tìm ra một không gian trong đó hai bên có thể
đạt được những mục tiêu nhiên hậu mà không cần quân sự hóa chiến lược
của mình không? Đối với những đại cường có những khả năng toàn cầu và
những tham vọng khác biệt, thậm chí có phần tương khắc, đâu là khoảng
cách giữa xung đột và từ bỏ địa vị bá chủ của mình?
Sự
kiện Trung Quốc sẽ có một ảnh hưởng to lớn trong những khu vực chung
quanh nội tại trong địa lý, giá trị văn hóa, và lịch sử nước này. Nhưng,
những giới hạn của ảnh hưởng ấy sẽ được hình thành do tình hình và các
quyết sách. Những yếu tố này sẽ quyết định liệu là việc tìm kiếm ảnh
hưởng tất yếu của Trung Quốc có biến thành một nỗ lực phủ định hay loại
bỏ các nguồn quyền lực độc lập khác hay không.
Trong
gần hai thế hệ, chiến lược Mỹ dựa vào việc bảo vệ các khu vực địa
phương [ở nước ngoài] bằng các lực lượng trú đóng trên bộ của Mỹ -- phần
lớn để tránh những hậu quả thảm khốc của một cuộc chiến tranh hạt nhân
rộng lớn. Trong những thập niên gần đây, dư luận dân chúng và quốc hội
đã thúc đẩy việc chấm dứt những cam kết như thế tại Việt Nam, Iraq, và
Afghanistan. Hiện nay, những tính toán ngân sách đang hạn chế thêm nữa
phạm vi của đường lối này. Chiến lược Mỹ đã chuyển từ bảo vệ lãnh thổ
sang đe dọa giáng trả những đòn trừng phạt ngoài mức chịu đựng của kẻ
thù có tiềm năng xâm lược. Đề án này đòi hỏi những lực lượng có khả năng
can thiệp nhanh chóng và vươn tới mọi nơi trên thế giới, nhưng không
đòi phải có những căn cứ vây quanh biên giới Trung Quốc. Điều cấm kỵ mà
Washington không nên làm là kết hợp một chính sách quốc phòng bị hạn chế
ngân sách với một chính sách ngoại giao đặt cơ sở trên những mục tiêu ý
hệ không bị hạn chế (unlimited ideological aims).
Trong
khi ảnh hưởng Trung Quốc tại các nước láng giềng có thể kích động những
lo sợ về một bá quyền, những nỗ lực của Mỹ trong việc theo đuổi những
lợi ích quốc gia truyền thống của mình có thể bị Trung Quốc coi là một
hình thức bao vây quân sự. Hai bên phải hiểu rõ những điểm tế nhị theo
đó các đường lối bên ngoài có vẻ truyền thống và có vẻ hợp lý có thể gợi
lên nỗi sợ hãi cho nhau. Hai bên phải cùng nhau tìm cách định nghĩa
lãnh vực trong đó sự cạnh tranh hòa bình của họ được giới hạn. Nếu việc
này được quản lý khéo léo, thì tình trạng đối đầu quân sự lẫn bá quyền
chính trị có thể tránh được; bằng không, sự căng thẳng giữa hai nước
ngày một leo thang là tất yếu. Nhiệm vụ của chính sách ngoại giao là
phải phát hiện được cái không gian cạnh tranh hòa bình này, nới rộng nó
nếu có thể, và ngăn chặn mối quan hệ giữa hai nước khỏi bị các yêu cầu
chiến thuật và nội bộ đè bẹp.
CỘNG ĐỒNG HAY XUNG ĐỘT?
Trật
tự thế giới hiện nay được kiến tạo gần như không có sự tham dự của
Trung Quốc, và vì thế đôi khi Trung Quốc không cảm thấy bị các luật lệ
của nó ràng buộc như các nước khác. Trong các trường hợp trật tự này
không phù hợp với nguyện vọng của Trung Quốc, Bắc Kinh đã sắp xếp lại
cách khác, chẳng hạn trong các kênh ngoại hối riêng biệt (separate
currency channels) đang được thiết lập với Brazil, Nhật Bản, và các nước
khác. Nếu mô hình này trở nên thông dụng và lan sang các lãnh vực hoạt
động khác, nhiều trật tự thế giới cạnh tranh nhau (competing world
orders) sẽ triển khai. Nếu không có được những mục tiêu chung gắn liền
với các luật lệ kiềm chế do các bên thoả thuận, một sự cạnh tranh mang
tính cơ chế (institutionalized rivalry) có khả năng leo thang, vượt ra
ngoài những tính toán và ý định ban đầu của những người khởi xướng.
Trong một thời đại trong đó các khả năng tấn công chưa từng thấy và các
công nghệ xâm nhập (intrusive technologies) gia tăng theo cấp số, những
biện pháp trừng phạt của mô hình này có khả năng là rất quyết liệt và có
lẽ không thể hủy bỏ.
Nỗ lực quản lý các cuộc
khủng hoảng sẽ không đủ sức để duy trì một mối quan hệ có tầm cỡ toàn
cầu rộng lớn và chịu quá nhiều sức ép khác nhau tự bên trong mỗi quốc
gia và giữa hai quốc gia. Đó là lý do tại sao, tôi đã bênh vực ý niệm về
một Cộng đồng Thái Bình Dương (a Pacific Community) và bày tỏ niềm hi
vọng rằng Trung Quốc và Mỹ có thể cùng nhau tạo ra một ý thức về mục
đích chung, ít ra trên một số vấn đề quan tâm tổng quát. Nhưng chúng ta
sẽ không đạt được mục tiêu của một cộng đồng như thế nếu một trong hai
phía coi nỗ lực này chủ yếu là một phương cách hữu hiệu hơn để đánh bại
hay phá hoại phía kia. Giữa Trung Quốc và Mỹ, không thể có khả năng phía
này bị phía kia thách thức một cách có hệ thống mà không hề nhận ra, và
nếu một sự thách thức như vậy được phía kia ghi nhận, nó sẽ bị chống
trả đích đáng. Cả hai nước cần phải cam kết hợp tác chân thật và tìm ra
một đường lối để truyền đạt và phản ảnh viễn kiến của mình cho nhau và
cho cả thế giới.
Một số bước dò dẫm theo chiều
hướng ấy đã được thực hiện. Chẳng hạn, Mỹ đã tham gia cùng một số quốc
gia khác trong việc bắt đầu các cuộc đàm phán về Quan hệ Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TTP), một thỏa ước mậu dịch tự do kết nối châu Mỹ với
châu Á. Một sự sắp xếp như vậy có thể là một bước tiến tới một Cộng đồng
Thái Bình Dương (a Pacific Community) vì nó sẽ hạ thấp những rào cản
mậu dịch giữa những nền kinh tế có năng suất cao, năng động, và giàu
tài nguyên nhất và nối hai bờ của đại dương trong những đồ án chung.
Obama
đã mời Trung Quốc tham gia TPP. Nhưng, các điều kiện gia nhập theo cách
trình bày của các thuyết trình viên và bình luận gia Mỹ đôi khi có vẻ
như muốn đòi hỏi những thay đổi cơ bản trong cơ cấu nội bộ Trung Quốc.
Nếu đúng là như vậy, TTP có thể bị Bắc Kinh coi là một phần chiến lược
nhằm cô lập Trung Quốc. Về phần mình, Trung Quốc đã đưa ra những sắp xếp
khác hơn, có thể sánh được với đề xuất của Mỹ. Trung Quốc đã thương
thuyết một thương ước với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đã
gợi ý về một thương ước Đông Bắc Á với Nhật Bản và Nam Hàn.
Những
cân nhắc chính trị nội bộ quan trọng là rất phức tạp cho mọi quốc gia.
Nhưng nếu Trung Quốc và Mỹ bắt đầu coi những nỗ lực thành lập thương ước
của nhau là những yếu tố trong một chiến lược để cô lập phía kia, khu
vực châu Á-Thái Bình Dương có thể biến thành nhiều khối quyền lực thù
địch cạnh tranh nhau. Mỉa mai là, điều này sẽ là một thách thức đặc biệt
cho Mỹ nếu Trung Quốc đáp ứng những kêu gọi thường xuyên trong đó Mỹ
yêu cầu Trung Quốc chuyển đổi từ một nền kinh tế lấy xuất khẩu làm chủ
đạo thành một nền kinh tế có động cơ tiêu thụ, như kế hoạch 5-năm gần
đây nhất đã dự tính. Một sự phát triển kinh tế như thế có thể giảm bớt
vốn đầu tư của Trung Quốc tại Hoa Kỳ như một thị trường xuất khẩu của
Trung Quốc, ngay cả khi Trung Quốc khuyến khích các quốc gia châu Á khác
định hướng nền kinh tế của họ thêm nữa về phía Trung Quốc.
Quyết
định chủ yếu mà cả Bắc Kinh lẫn Washington phải đối diện là liệu hai
nước sẽ tiến tới một nỗ lực hợp tác thật sự hay hai nước sẽ rơi vào một
phiên bản mới của các mô hình lịch sử về cạnh tranh quyền lực quốc tế.
Cả hai nước đều chọn luận điệu cổ vũ cộng đồng quốc tế. Họ thậm chí còn
lập một diễn đàn cấp cao cho việc này, đó là diễn đàn Đối thoại Chiến
lược và Kinh tế (the Strategic and Economic Dialogue), họp hai lần một
năm. Diễn đàn này có một số kết quả trên các vấn đề cấp thời, nhưng nó
vẫn chưa đi đến đâu trong nhiệm vụ sau cùng là tạo được một trật tự kinh
tế và chính trị thực sự toàn cầu. Và nếu một trật tự toàn cầu không
xuất hiện trong lãnh vực kinh tế, thì những trở ngại cho tiến bộ trên
các vấn đề nhạy cảm và thiếu tích cực, như lãnh thổ và an ninh quốc gia,
có thể trở nên rất khó khắc phục.
NHỮNG RỦI RO CỦA LỐI NÓI KHOA TRƯƠNG
Khi
theo đuổi tiến trình này, cả hai bên cần phải nhìn nhận tác động của
luận điệu khoa trương lên cảm thức và các tính toán. Vì yêu cầu chính
trị nội bộ, lãnh đạo Mỹ thường tung ra các chỉ trích chống Trung Quốc,
gồm cả việc đề xuất những chính sách cụ thể mang tính thù nghịch. Họ làm
việc này kể cả -- có lẽ dặc biệt là – khi một chính sách ôn hòa là ý
định sau cùng của Mỹ. Vấn đề này không phải là những bất bình cụ thể,
vốn phải được giải quyết theo ưu khuyết điểm của từng vụ việc, nhưng nằm
ở các mũi tấn công nhắm vào những động lực cơ bản trong chính sách của
Trung Quốc, chẳng hạn tuyên bố Trung Quốc là một kẻ thù chiến lược. Mục
tiêu của các mũi tấn công này nhất định sẽ đưa đến vấn nạn là, liệu
những yêu cầu cấp bách của nội bộ Mỹ đang đòi hỏi khẳng định thái độ thù
nghịch với Trung Quốc không sớm thì muộn sẽ đòi hỏi luôn cả hành động
thù nghịch hay không? Tương tự như thế, những tuyên bố có tính cách hù
họa của Trung Quốc, kể cả những tuyên bố trên báo chí bán chính thức của
Trung Quốc rất có thể được diễn giải thành những hành động mà chúng ám
chỉ, bất luận các áp lực nội bộ hay ý đồ đưa đến những tuyên bố đó là gì
đi nữa.
Cuộc tranh luận tại Mỹ, của cánh tả
cũng như cánh hữu, thường mô tả Trung Quốc như một “cường quốc đang trỗi
dậy” cần có thời gian để “trưởng thành” và học cách thi hành trách
nhiệm trên sân khấu thế giới. Nhưng, Trung Quốc không tự coi mình như là
một cường quốc đang trỗi dậy, nhưng là một cường quốc đang trở về tư
thế cũ, từng có địa vị khống chế trong khu vực suốt hai thiên niên kỷ và
tạm thời bị thay thế bởi các nước thực dân bóc lột, những thế lực đã
lợi dụng tình trạng nội chiến và suy yếu của Trung Quốc. Trung Quốc coi
viễn ảnh một nước Trung Hoa hùng mạnh sử dụng ảnh hưởng của mình trong
các vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị, và quân sự không phải một thách
thức bất thường cho trật tự thế giới nhưng thật ra đó là một sự trở lại
với tình trạng bình thường. Người Mỹ không cần phải đồng ý với mọi khía
cạnh trong cách lý giải của phía Trung Quốc để hiểu được rằng việc lên
lớp một quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử về nhu cầu “phải trưởng thành”
và ứng xử “có trách nhiệm” có thể nghe chối tai vô ích.
Về
phía Trung Quốc, những tuyên bố của các cấp chính quyền và các cấp bán
chính thức, rằng Trung Quốc có ý định “hồi sinh nước Trung Hoa” trở lại
địa vị đại cường truyền thống của nó, mang nhiều ý nghĩa khác nhau ở bên
trong cũng như bên ngoài Trung Quốc.Trung Quốc có quyền tự hào chính
đáng về những tiến bộ gần đây trong việc phục hồi ý nghĩa về hướng đi
của đất nước, tiếp theo sau giai đoạn mà họ coi là một thế kỷ ô nhục.
Tuy nhiên, ít có một nước nào khác tại châu Á luyến tiếc một thời đại mà
họ chịu khuất phục dưới quyền bá chủ của Trung Quốc. Là những nước
trước đây đã từng chiến đấu chống chế độ thực dân, hầu hết các nước châu
Á là cực kỳ bén nhạy trong việc duy trì độc lập và tự do hành động khi
phải đối diện với bất cứ cường quốc nào từ bên ngoài, dù là từ phương
Tây hay châu Á. Họ tìm cách tham dự các hoạt động trong các lãnh vực
kinh tế và chính trị chồng lấn lên nhau càng nhiều càng tốt; họ chào đón
Hoa Kỳ đóng một vai trò trong khu vực nhưng với mục đích tìm kiếm một
sự quân bình, chứ không phải tham dự một cuộc thánh chiến hay đối đầu.
Sự
trỗi dậy của Trung Quốc là do hậu quả của việc Trung Quốc gia tăng sức
mạnh quân sự thì ít, nhưng do thế cạnh tranh của Mỹ đang suy yếu thì
nhiều, một sự suy yếu bị thúc đẩy bởi các yếu tố như là cơ sở hạ tầng cũ
kỹ lỗi thời, sự thiếu quan tâm đối với công tác nghiên cứu và phát
triển, và một qui trình chính phủ có vẻ rối loạn chức năng. Mỹ phải đối
phó với những vấn đề này bằng sự khéo léo và quyết tâm của mình thay vì
chỉ biết đổ lỗi cho một quốc gia bị coi là thù địch. Mỹ phải cẩn trọng
để khỏi lặp lại trong chính sách đối với Trung Quốc mô hình của các cuộc
xung đột mà Mỹ đã tham gia – lúc đầu với sự hậu thuẫn của đông đảo quần
chúng và với những mục tiêu rộng lớn, nhưng về sau phải kết thúc khi
tiến trình chính trị Mỹ đòi hỏi một chiến lược rút quân tương đương với
một sự từ bỏ, nếu không muốn nói một sự đảo ngược hoàn toàn, những mục
tiêu của quốc gia đã được công bố.
Trung Quốc có
thể tìm thấy trấn an trong chính thành tích bền bĩ chịu đựng của mình
và trong sự kiện chưa bao giờ có một chính quyền Mỹ nào tìm cách thay
đổi tình hình thực tế của Trung Quốc như một trong những quốc gia, những
nền kinh tế, và những nền văn minh quan trọng của thế giới. Người Mỹ
phải nhớ rằng thậm chí cả khi GDP của Trung Quốc có ngang bằng với GDP
của Mỹ, thì nó sẽ phải được phân bố trên một dân số đông gấp bốn lần Mỹ,
đang già nua, và đang nằm trong những chuyển biến nội bộ phức tạp được
gây ra do sự tăng trưởng và tiến trình đô thị hóa của Trung Quốc. Hậu
quả thực tế là, một phần lớn năng lực của Trung Quốc sẽ được dồn vào
những nhu cầu trong nước.
Hai bên phải đủ cởi mở
để có thể coi các hành vi của nhau như một phần bình thường của sinh
hoạt quốc tế và không coi chúng như là lý do để sợ hãi. Xu thế tất yếu
là hai bên sẽ va chạm lẫn nhau, nhưng không nên coi đó như là một nỗ lực
cố ý để ngăn chặn hay thống trị, bao lâu mà hai bên còn có thể phân
biệt rạch ròi như thế và chịu rà soát, điều chỉnh hành vi của mình một
cách thích đáng. Mỹ và Trung Quốc không nhất thiết phải vượt lên trên sự
vận hành thông thường của một cuộc thi đua giữa các đại cường. Nhưng vì
trách nhiệm đối với chính mình, và với thế giới, hai nước phải cố gắng
làm điều này.
H. A. K.
No comments:
Post a Comment